• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM

Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh: Những nỗi đau mang tên "chất độc da cam" bóp nghẹt trái tim qua từng hiện vật

Chiến tranh đã lùi xa hơn 50 năm, tiếng đạn bom cũng không còn vang lên đầy khiếp sợ… nhưng nỗi đau sau chiến tranh vẫn còn đó, không dễ gì nguôi ngoai. Nỗi đau đó âm ỉ trong những cuộc đời thầm lặng, trong những con người từng và chưa từng đi qua cuộc chiến. Nỗi đau đó rõ rệt trong những gia đình có mấy thế hệ bị ảnh hưởng chất độc màu da cam. Nỗi đau đó hiện hữu trong từng chứng tích của chiến tranh được trưng bày ở nhiều bảo tàng trên khắp đất nước Việt Nam, nhất là Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh ở TP. Hồ Chí Minh. Những hiện vật ở đây không chỉ khắc họa các giai đoạn lịch sử mà còn kể câu chuyện đầy đau thương của hàng triệu nạn nhân bị ảnh hưởng chất độc da cam.

Nỗi đau tột cùng mang tên "chất độc màu da cam"

Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh hay còn gọi là War Remnants Museum được thành lập ngày 4/9/1975, tọa lạc tại số 28 Võ Văn Tần, phường Võ Thị Sáu, TP. Hồ Chí Minh. Đây là bảo tàng duy nhất của Việt Nam thuộc hệ thống thành viên các Bảo tàng vì Hòa bình thế giới (INMP) và Hội đồng Quốc tế các Bảo tàng (ICOM).

Bảo tàng chuyên nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản và trưng bày về chứng tích tội ác và hậu quả của các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Qua đó, kêu gọi công chúng nêu cao ý thức chống chiến tranh phi nghĩa, bảo vệ hòa bình và tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân các nước trên thế giới.

Những dòng chữ được viết trên nền tường cam rực lửa cùng những bức hình đen trắng gây ám ảnh đến nghẹt thở. 

Bảo tàng hiện lưu giữ hơn 20.000 tài liệu, hiện vật và phim ảnh, trong đó, có hơn 1.500 tài liệu, hiện vật, phim ảnh quý đã được đưa vào giới thiệu với các chuyên đề như: Những sự thật lịch sử, Hồi niệm, Hậu quả chất độc da cam trong chiến tranh Việt Nam, Tội ác chiến tranh xâm lược, Thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến, Bảo tàng ngoài trời, Hậu quả bom mìn trong chiến tranh, Việt Nam - Chiến tranh và hòa bình....

Mở đầu câu chuyện, trưng bày đưa người xem ngược dòng lịch sử trở về những năm 1961 - 1971, một thập kỷ quân đội Mỹ sử dụng chất da cam/dioxin ở Việt Nam. Từ năm 1961 đến 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành gần 20.000 phi vụ rải chất độc hóa học xuống Việt Nam, với khoảng 80 triệu lít hóa chất, trong đó 61% là chất da cam chứa 366 kg dioxin. Chất độc được rải xuống gần 26.000 thôn bản, bao phủ hơn 3 triệu hecta đất đai, tương đương 1/4 diện tích miền Nam lúc bấy giờ. Có nơi bị rải đi rải lại hơn 10 lần.

Mỗi hiện vật là một câu chuyện khiến khách tham quan phải suy nghĩ và chiêm nghiệm. Các hiện vật, mô hình được tái hiện ở dạng “tĩnh” nhưng lại “động” trong tâm khảm mỗi người khi ý thức về chiến tranh và hòa bình, giữa sự sống và cái chết.

Chuyên đề Hậu quả chất độc da cam trong chiến tranh Việt Nam trưng bày 100 ảnh, 10 tài liệu, 20 hiện vật… là những bằng chứng “ám ảnh” về hậu quả nặng nề của việc phun rải chất độc da cam của đế quốc Mỹ mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu.

Bước vào không gian trưng bày chuyên đề Hậu quả chất độc da cam trong chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam, chúng tôi tôi lập tức bị hút mắt bởi những mảng tường màu cam rực lửa. Trên nền tường ấy, hiện lên một dòng chữ: “Hãy đến với nạn nhân chất độc da cam - đến với nỗi đau tận cùng của con người. Nỗi đau của họ cũng là nỗi đau chung của cả nhân loại”.

Bên cạnh đó là bức ảnh đen trắng gây ám ảnh đến nghẹt thở - một người phụ nữ gồng mình tắm cho đứa trẻ dị tật, ánh sáng khắc nghiệt lột tả đến tận cùng sự bất lực và yêu thương.

Những bức ảnh trong không gian trưng bày sắp xếp liền nhau, không có nhiều phần thuyết minh nhưng vẫn đủ thông điệp để khiến khách tham quan đến từ bất cứ quốc gia nào “run lên” về tội ác đế quốc Mỹ trong chiến tranh.

Du khách quốc tế lắng lặng người khi nghe những câu chuyện về hậu quả chất độc da cam đối với con người. 

Tội ác đó đã khiến những đứa trẻ sinh ra không thể lành lặn, những người mẹ bao đêm dài ôm con trong nước mắt, những cuộc đời gắn chặt với xe lăn, bóng tối bao trùm cuộc đời và nỗi đau di truyền qua nhiều thế hệ. Đó không còn là một không gian bảo tàng mà là một hành trình ký ức đau thương của bao phận người được kể lại bằng ánh sáng, màu sắc và sự im lặng.

Chị Nguyễn Thị Thanh Diệu - nhân viên Tổ Tuyên truyền Đối ngoại, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh chia sẻ thêm với chúng tôi về 2 gam màu cam - đen trong không gian trưng bày chuyên đề về chất độc da cam: “Cam là sắc màu mang tính biểu tượng của chất độc da cam, gợi nhắc đến nỗi đau cháy bỏng, dai dẳng và đầy ám ảnh.

Còn đen là màu tối trầm mặc, gợi lên một sự buồn man mác, như phủ lên toàn bộ không gian một sự lặng thầm. Sự kết hợp ấy không chỉ tạo nên hiệu ứng thị giác mạnh mẽ mà còn như một cách để bảo tàng kể chuyện bằng màu sắc: một câu chuyện về nỗi đau không chỉ xảy ra trong quá khứ, mà còn kéo dài đến hiện tại, xuyên qua nhiều thế hệ”.

Theo thống kê của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, loại hóa chất này đã khiến 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm, trong đó có 3 triệu người là nạn nhân trực tiếp. Với thành phần dioxin cực kỳ nguy hiểm, chất da cam có khả năng gây tổn thương nghiêm trọng đến da, gan, tuyến giáp, hệ thần kinh, tim mạch, hệ sinh sản, đồng thời làm tăng nguy cơ ung thư, sẩy thai và đột biến gen.

Hậu quả không chỉ dừng lại ở thế hệ đầu tiên, chất độc da cam còn di truyền sang các thế hệ sau, gây dị tật, thiểu năng trí tuệ, câm điếc, liệt chi… Ước tính tại Việt Nam hiện có khoảng 150.000 nạn nhân thế hệ thứ hai, 35.000 nạn nhân thế hệ thứ ba, 2.000 nạn nhân thế hệ thứ tư.

Những bức ảnh "biết nói" 

Đi sâu vào không gian trưng bày, từng bức ảnh tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh không đơn thuần là một tác phẩm của nhiếp ảnh mà là một nỗi đau được đóng khung, nơi mỗi ánh mắt, mỗi dáng người, mỗi thước hình đều khắc họa sự tàn phá ghê gớm của chất độc màu da cam.

Nỗi đau da cam in hằn trên từng bức ảnh tại bảo tàng. 

Nỗi đau da cam in hằn trên từng bức ảnh, không chỉ bởi sự thật khốc liệt mà chúng phản ánh, mà còn bởi cách mà bảo tàng trưng bày và dẫn dắt cảm xúc người xem.

Mỗi bức ảnh là một vết cắt vào ký ức tập thể, là bản ghi nhớ sống động về tội ác và nỗi đau mà hàng triệu người dân Việt Nam đã và đang phải gánh chịu. Nhưng đồng thời, ẩn sâu trong mỗi ánh mắt, mỗi bàn tay co quắp là sức sống mãnh liệt, là bản lĩnh kiên cường, là một thứ ánh sáng nhói lên từ tăm tối: Niềm tin vào sự sống, vào lòng nhân đạo và vào công lý.

Hình ảnh về chị Nguyễn Thị Mến, 21 tuổi ở Thái Bình, là một trong những điểm dừng chân khiến chúng tôi lặng người rất lâu. Trong khung cảnh xám bạc, chị Mến hiện lên với ánh mắt ngây dại, gương mặt trẻ thơ nhưng cơ thể gò bó trong một chiếc cũi sắt. Người cha của chị từng là bộ đội tham gia chiến trường Trường Sơn, bị nhiễm chất khai quang trong chiến tranh. Chất độc không chỉ làm hại chính ông mà còn âm thầm di truyền sang thế hệ sau.

Chị Mến từ nhỏ đã không kiểm soát được hành vi, phải sống trong không gian chật hẹp như lồng sắt để tránh gây tổn thương cho chính mình. Theo lời kể được bảo tàng ghi lại, "giây phút “người” nhất là khi cô chia tay cha mới nhận ra cha mình".

Bức ảnh thứ hai khiến chúng tôi ám ảnh không kém là hình ảnh ba đứa trẻ bị dị tật nằm trong một chiếc cũi lớn, ánh nhìn vô hồn, chân tay co quắp. Cảm giác bất lực tràn lên không phải từ tiếng khóc, mà từ chính sự im lặng. Một sự im lặng kéo dài và tuyệt vọng.

Trưng bày không cần nói gì thêm, chỉ bằng cách đặt bức ảnh đó giữa không gian tối màu, đủ để khiến người xem nặng trĩu. Kế bên là bức ảnh một người mẹ đang vật lộn chăm sóc cho con, một thanh niên bị dị dạng nghiêm trọng. Gương mặt bà hằn rõ vết thời gian, cơ thể rút lại trong một tư thế còng, tay quấn vội mảnh vải quanh đứa con đang vùng vẫy trên giường. Người mẹ ấy không còn nước mắt để khóc, chỉ còn lại bản năng sống, chăm con, giữ con.

Những đứa trẻ sinh ra không lành lặn do di chứng của chất độc da cam. 

Không chỉ một hay hai bức ảnh, cả dãy hành lang trưng bày là một hành trình của đau thương và bền bỉ, từ những mảnh đời rời rạc ghép lại thành ký ức tập thể.

Trong số đó, có bức ảnh về gia đình chị Nguyễn Thị Hương ở Đà Nẵng, một gia đình điển hình của "nỗi đau di truyền". Cha mẹ là cựu chiến binh, từng trực tiếp tiếp xúc với chất độc hóa học. Ba người con của họ, mỗi người mang một dị dạng khác nhau, từ hệ xương biến dạng đến thiểu năng trí tuệ.

Gia đình ấy, sống cùng nhau như một đơn vị chiến đấu, chống lại chính di chứng của chiến tranh. Bức tranh gia đình chị Hương không chỉ là bằng chứng về chất độc da cam, mà là “bản cáo trạng sống động” nhất về một loại tội ác không tiếng súng.

Không ai nói, nhưng người xem đủ hiểu, trong bức ảnh ấy có một thế hệ đau thương quặn thắt, không bởi chiến tranh bom đạn, mà bởi di chứng độc tố âm ỉ truyền từ cha mẹ sang con cái.

Một trong những hiện vật ám ảnh nhất tại bảo tàng là “ngôi mộ thai nhi”. Trong ngôi mộ bằng kính, ba bào thai bị dị tật do ảnh hưởng chất độc da cam/dioxin được đặt trong hai ngăn: phía trước là song thai dính liền ngực và bụng, trong đó một bé bị chẻ môi; phía sau là một thai nhi dị dạng đầu, sứt môi.

Những “ngôi mộ thai nhi” khiến ai cũng quặn đau khi nhìn thấy tại Bảo tàng Chứng tích chiến tranh. 

Trong đó, hai hài nhi dị tật, song thai dính liền ngực và bụng nằm co quắp, đôi chân nhỏ cong vẹo, thân thể xoắn lấy nhau như thể vẫn còn đang giãy giụa trong bóng tối. Không có tiếng khóc, cũng không có nước mắt. Chỉ có sự im lặng đến rợn người.

Một sự im lặng nén chặt, không chỉ bởi tấm kính, mà còn bởi một nỗi đau không tên. Để nhìn thấy rõ, người xem buộc phải cúi xuống. Phải khom lưng, phải hạ mình như một động tác mặc niệm trong vô thức. Bởi trước mất mát này, không thể đứng thẳng mà nhìn.

Những đôi mắt đỏ hoe vì nỗi đau dâng trào

Đứng trước không gian trưng bày ánh đèn vàng ở tầng 2, nơi phơi bày những sự thật trần trụi và tàn khốc của chiến tranh, chúng tôi chứng kiến không ít đoàn học sinh, sinh viên và cả khách nước ngoài lặng người, nghẹn ngào.

Những cảm xúc ấy khiến thông điệp mà bảo tàng gửi gắm càng hiện rõ: “Hãy đến với nạn nhân chất độc da cam - đến với nỗi đau tận cùng của con người. Nỗi đau của họ cũng là nỗi đau chung của cả nhân loại”.

Hình ảnh người mẹ nghèo khổ bên những đứa con sinh ra đã bị ảnh hưởng chất độc da cam. 

Chúng tôi hỏi chị Thanh Diệu: “Những du khách nước ngoài, đặc biệt là người Mỹ sau khi nghe chị thuyết minh, cảm xúc của họ ra sao?”, chị Diệu bày tỏ: “Thật ra không chỉ người nước ngoài đâu, ngay cả người Việt khi bước vào phòng trưng bày này, hầu như ai cũng trầm lại.

Nhìn quanh, bạn sẽ thấy… khuôn mặt ai cũng mang một sự trầm lắng buồn, lặng mà sâu. Không có những tiếng cười, không ai nói lớn, không có những cảnh check-in với các hiện vật như xe tăng hay máy bay ngoài kia. Mỗi người như tự đứng vào một góc của riêng mình.

Cái cảm giác khốc liệt của chiến tranh, của chất độc, của những di chứng để lại… khiến người ta không nói được. Mình biết chất độc đó độc hại nhưng ít ai nghĩ hậu quả của nó lại dai dẳng, ám ảnh và nặng nề đến vậy”.

Cá nhân chị Thanh Diệu, nhiều năm làm công tác tuyên truyền tại bảo tàng, đã kể cho không biết bao nhiêu du khách nghe, nhưng trong buổi thuyết trình hôm đó, đôi mắt của chị vẫn đỏ hoe vì những cảm xúc cuồn cuộn trong lòng mình.

Trần Kim Khánh (23 tuổi) đến từ TP. Hồ Chí Minh bày tỏ: “Chứng kiến những nỗi đau qua các hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, tôi cũng đau đớn theo. Tâm trạng tôi trùng xuống khi nhìn thấy những bức ảnh đen trắng, những di vật nhuốm màu thời gian, từng dòng chữ và cả những bào thai bị ảnh hưởng từ chất độc da cam chưa được sinh ra... tất cả đều khiến tôi nghẹt thở, nói không nên lời.

Không còn là những trang sử khô khan mà là những sự thật hiện lên đầy đau đớn. Tôi biết ơn vì mình đã được sinh ra trong hòa bình và được sống hạnh phúc”.

Trong cuốn sổ cảm tưởng ghi tại Bảo tàng, bà Natalie - một du khách người Mỹ viết: “Tôi cảm thấy ghê sợ, kinh hoàng, được khai sáng và vô cùng xúc động trước những gì chứng kiến ở bảo tàng này. Đây là điều mà tôi sẽ không bao giờ quên.

Những hình ảnh ấy sẽ mãi in sâu trong tâm trí tôi. Là một người Mỹ, tôi thực sự cảm thấy cúi mình trước sự bao dung và rộng lượng mà người dân Việt Nam đã dành cho tôi suốt tháng qua.

Tôi từng học về chiến tranh ở trường, nhưng chưa bao giờ đến mức độ như thế này. Đây là một cuộc tham quan giúp tôi mở mang tầm mắt, có thêm những trải nghiệm vì có quá nhiều điều mà chúng tôi đã không được biết. Chính câu chuyện này là điều mà cả thế giới, đặc biệt là người Mỹ cần phải biết để lịch sử không lặp lại…

Tôi không thể làm gì để bù đắp cho những sinh mạng đã mất, nhưng tôi đồng cảm sâu sắc. Tôi hứa sẽ làm tất cả trong khả năng của mình để những điều tương tự không bao giờ xảy ra nữa. Xin cho những vết thương được chữa lành!”.

Dioxin (TCDD) là chất phụ gia nguy hiểm, sinh ra trong quá trình sản xuất chất diệt cỏ và được khoa học xác định là chất độc nhất mà con người từng tạo ra. Chỉ cần 85 gam dioxin tương đương một thìa canh cũng đủ để giết chết toàn bộ cư dân của một thành phố có khoảng 8 triệu người. Trong khi đó, riêng trong chiến tranh, Mỹ đã rải tới 366 kg dioxin xuống Việt Nam.

Trong chiến tranh tại Việt Nam (1961–1971), quân đội Mỹ đã sử dụng nhiều loại chất diệt cỏ có chứa dioxin. Các loại chất như chất hồng, chất xanh lá cây và chất tía có hàm lượng dioxin cao, dao động từ 32,8 đến 65,6 ppm. Đặc biệt, chất da cam và phiên bản tăng cường của nó (siêu da cam) chiếm tới 61% tổng lượng hóa chất được sử dụng, với nồng độ dioxin từ 1,77 đến 40 ppm.

Nguồn: Báo Dân Việt

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác