Ngày 10/8/1961 - máy bay của không lực Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành phun rải chất độc, mở màn chiến dịch khai quang kéo dài suốt 10 năm (1961-1971) ở miền Nam Việt Nam. Thực tế và thời gian ngày một chứng minh rằng, đây là một cuộc chiến tranh hoá học có quy mô lớn nhất, dài ngày nhất và gây hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử loài người: 10 năm với 19.905 phi vụ, phun rải 80 triệu lít chất độc hóa học, trong đó 61% là chất da cam, chứa 366kg dioxin xuống 25.585 thôn bản (chiếm ¼ diện tích miền Nam Việt Nam). Cuộc chiến tranh phi nghĩa đó không chỉ làm cho 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm chất độc hoá học, hơn 3 triệu người là nạn nhân, mà còn gây nên biết bao thảm cảnh và hệ luỵ buồn đau xuyên thế hệ trong các gia đình cựu chiến binh, nạn nhân chất độc da cam…
Để giúp bạn đọc có điều kiện tra cứu, tìm hiểu về cuộc chiến tranh hóa học này, từ số ra tháng 5/2023, Tạp chí Da cam Việt Nam đăng tải thường kỳ nội dung cuốn sách “Chiến tranh hoá học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam (1961-1975) - Biên niên sự kiện” trong chuyên mục Thông tin khoa học.
Có thể nói, cuốn sách “Chiến tranh hoá học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam (1961-1975) - Biên niên sự kiện” là công trình tổng hợp các sự kiện về chiến tranh hoá học, giúp bạn đọc hình dung được quy mô cuộc chiến tranh hoá học này cả về không gian và thời gian, về khối lượng khổng lồ chất độc hoá học được Mỹ đem ra sử dụng cũng như hậu quả nghiêm trọng cả trước mắt và lâu dài đối với môi trường sinh thái và sức khoẻ nhiều thế hệ người Việt Nam nói riêng, Lào và Campuchia nói chung; của binh lính Mỹ và binh lính các nước đồng minh của Mỹ (Hàn Quốc, Australia, New Zealand...) tham gia cuộc chiến tranh ở Việt Nam; về vai trò của Tổng thống, Chính phủ Hoa Kỳ, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, các vị Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, quân đội Mỹ và quân đội các nước đồng minh của Mỹ, các công ty hoá chất Mỹ sản xuất và cung ứng chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides) cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.
Cùng với đó, Biên niên sự kiện đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc muốn tìm hiểu sự bất đồng quan điểm trong nội bộ Chính phủ Mỹ khi sử dụng chất diệt cỏ vào mục đích quân sự; dư luận nhân dân tiến bộ Mỹ và thế giới, trong đó có nhiều nhà khoa học Mỹ nổi tiếng lên án cuộc chiến tranh hoá học tàn bạo này ở Việt Nam. Biên niên sự kiện còn phơi bày dã tâm bưng bít, bóp méo sự thật về tính độc hại của dioxin của các công ty hoá chất Mỹ, thái độ thờ ơ, vô cảm trước những hậu quả vô cùng nặng nề mà các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đã và đang phải gánh chịu. Bạn đọc còn được cung cấp những thông tin ngắn gọn về các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến chất độc da cam/dioxin của các nhà khoa học nước ta và thế giới; về hợp tác khoa học giữa Việt Nam và Mỹ trong vấn đề tẩy độc các điểm nóng dioxin…
Trân trọng gửi đến bạn đọc!
PHẦN I: QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN
Ngược dòng lịch sử
Trong những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, kết quả nghiên cứu hoá học nông nghiệp đã cho thấy rất nhiều hóa chất tổng hợp có thể điều chỉnh hoặc hạn chế cây cỏ phát triển. Các chất này có nhiều hứa hẹn giúp nông dân diệt cỏ rất hiệu nghiệm, nhưng nhiều người cũng đánh giá cao tiềm năng sử dụng trong quân sự. Chất diệt cỏ có hiệu lực nhất được biết đến là 2,4 - dichlorophenoxy axetíc acid (2,4-D) /Peter Schtick, Ị986, Agent Orange on trial/. Mỹ đã nghiên cứu sử dụng chất diệt cỏ vào mục đích quân sự từ thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Năm 1943, Giáo sư E. J. Kraus, Chủ nhiệm khoa thực vật trường Đại học Chicago đã ký hợp đồng với quân đội Mỹ nghiên cứu tác hại của chất 2,4,5 - triehlorophenoxyaxetie axít (2,4,5-T) đối với cây lúa. Đến năm 1944, đề tài này chuyển sang Trung tâm nghiên cứu chiến tranh hoá học của quân đội Mỹ tại Fort Detrick, bang Maryland. Tại đây, người ta đã nghiên cứu trên 1.000 chất có khả năng phá huỷ cây lương thực và trên 12.000 chất có khả năng làm rụng lá, trong đó có trên 700 chất có triển vọng đem sử dụng. Cuối chiến tranh thế giới lần thứ II, Không quân Mỹ đã có kế hoạch sử dụng một số chất diệt cỏ để huỷ diệt những cánh đồng lúa rộng lớn vùng ngoại ô 6 thành phố lớn Nhật Bản: Tokyo, Locohama, Nagôia, Oxaca, Kyoto và Kobe. Song chưa kịp sử dụng thì chiến tranh đã kết thúc.
Dự án Agile của Cơ quan Nghiên cứu nâng cao thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ (The DoD’s Advanced Research Project Agency’s - ARPA) đã thành công trong việc phát triển chất diệt cỏ thành một vũ khí quân sự, một ý tưởng được gợi ý bởi những thành công của người Anh sử dụng 2,4,5-T để phá huỷ nguồn lương thực của quân nổi dậy ở Malaysia.
ARPA tài trợ cho những thử nghiệm về sự kết hợp và nồng độ của những chất diệt cỏ, những nghiên cứu dò tìm liều lượng sử dụng cho hệ thống phun rải để đạt mật độ mong muốn 28 lít/ha (3 gallons/acre), và những thử nghiệm về điều kiện tối ưu (cỡ hạt sương; tốc độ gió, tầm cao và tốc độ bay khi phun). ARPA cũng phát triển một hệ thống đánh giá tại thôn ấp để thu thập những dữ liệu điều tra nhằm ước lượng số người bị phơi nhiễm chất độc hoá học.
Những đặc điểm của chất diệt cỏ 2,4 D và 2,4,5 - T với tư cách là vũ khí đã được phát hiện trong các công trình nghiên cứu của quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới lần thứ II.
Các nhà khoa học quân đội tại các phòng thí nghiệm thuộc Edge wood Arsenal đánh giá 2,3,7,8 - tetrachlorodibenzo-p-dioxin là một tác nhân chiến tranh hoá học tiềm tàng. Vào năm 1957, họ đã nghe nói có một vụ bùng nổ bệnh chloracne trong một số nhà máy hoá chất Đức có sản xuất 2,4,5 - trichlorophenol (TCB), nguyên liệu chính được sử dụng trong sản xuất 2,4,5 - T và đã đọc một bài báo của Kimming và Schultz nhận diện được khối lượng nhỏ dioxin cũng có thể gây tổn thương nghề nghiệp cho công nhân.
Trong suốt thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, thử nghiệm sử dụng chất diệt cỏ vào mục đích quân sự được tiến hành ở Florida, California, Indiana, Kentucky, Kansas, Montana, Maryland, Băc Dakota, Utha, Rhode Island, Texas, Washington và New York. Hầu hết các cuộc thử nghiệm đều nhằm mục tiêu đối với cây trồng. Năm 1959, tại Trại Trống (Camp Drum, New York), 1.035 ha cây phong đường (sugar maples) và cây gỗ cứng khác đã bị phun trong một thử nghiệm khác để đánh giá hiệu quả của các chất khai quang rụng lá (defoliants). Đầu những năm 1969, các chất 2,4-D và 2,4,5 -T được dùng để khai quang rụng lá, còn hợp chất chứa asen (acid cacodylic) được dùng để phá hoại mùa màng.
Ngoài ra, thử nghiệm chất diệt cỏ cũng được tiến hành ở Canada, Hàn Quốc, Puecto Rico, Ấn Độ và Thái Lan.
Trong những năm đầu thập niên 60, thế kỷ XX, Chính phủ Hoa Kỳ đã tiến hành các cuộc thí nghiệm nhiều loại hoá chất diệt cỏ, trong đó có 2,4- D và 2,4,5- T nhằm xác định thành phần cụ thể để đưa vào sử dụng tại Đông Nam Á. Người đầu tiên có kiến nghị đưa 2,4,5 - T sử dụng tại Việt Nam là tiến sĩ J.W. Brown. Người thông qua kiến nghị của ông Brown là tiến sĩ Charles Minarik, Trưởng ban mùa vụ (Crop Division) tại Fort Detrick. Việc thử nghiệm các dẫn xuất của 2,4- D và 2,4,5- T (butyleste, isobutyleste và isooctyleste) được xúc tiến hết sức khẩn trương nhằm mục đích sau:
1/ Lựa chọn chất diệt cỏ (herbicides) vào mục đích quân sự, đồng nghĩa với việc lựa chọn chất diệt cây (week killer, anti-plant hay phyotoxic agents);
2/ Nghiên cứu tác hại gây ra đối với từng loại cây lương thực, cây lấy gỗ;
3/ Nghiên cứu mật độ (liều lượng) sử dụng (số galông chất diệt cỏ trên một đơn vị diện tích), thời gian rụng lá;
4/ Nghiên cứu điều kiện tối ưu: nhiệt độ, độ ẩm không khí, tốc độ gió, độ cao và tốc độ máy bay khi tiến hành phun rải chất diệt cỏ.
Năm 1959, Trung tâm nghiên cứu chiến tranh hoá học Fort Detrick tổ chức một cuộc diễn tập quy mô lớn tại Trại Trống (Fort Drum)- New York trên một diện tích 4 dặm vuông. Thành công của cuộc diễn tập nhanh chóng được Bộ Quốc phòng Mỹ ghi nhận và quyết định cho lập phương án sử dụng chất diệt cây (anti -plant) tại miền Nam Việt Nam trong khuôn khổ “Chương trình sử dụng chất diệt cỏ ở Đông Nam Á”. Tiếp sau đó, đại tá J.W. Brown , Chủ nhiệm chương trình nghiên cứu nói trên đã tiến hành 18 cuộc thực hành phun rải chất diệt cỏ tại Texas, Hawaii, Puecto Rico và Thái Lan (gần Pran Buri). Những kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, ngoài thực địa và tại chiến trường đã làm cho Tổng thống John F. Kennedy bị cuốn hút theo hướng chấp thuận khuyến nghị của các Bộ Quốc phòng và Ngoại giao - đồng soạn thảo cái gọi là Operation Hades (chiến dịch Tử thần) về sau được gọi là Operation Ranch Hand - tạm dịch là Chiến dịch “Bàn tay công nhân nông nghiệp”, hoặc “Chiến dịch Lực điền” - thực chất là Chiến dịch khai quang, phá huỷ hoa màu được ghi trong các văn thư chính thức của chính phủ Việt Nam cộng hòa (VNCH).
Năm 1960
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNCH - chính quyền Sài Gòn cũ) đã thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc rằng: Quân đội Việt Nam Cộng hoà đã sử dụng hoá chất vào mục đích khai quang làm rụng lá cây tại một số vùng rừng rậm nhiệt đới Nam Việt Nam từ năm 1960.
Ngày 7/6/1960
“Công tác diệt trừ cây cỏ”:
Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH ban hành Chỉ thị về “Công tác diệt trừ cây cỏ”. Nội dung gồm:
1/ Thể thức đề nghị nhu cầu khai quang bằng hoá chất (để phân biệt với phát quang bằng cách tỉa cành, chặt hạ cây xung quanh căn cứ hoặc ủi quang bằng máy ủi hạng nặng dọc hai bên tỉnh lộ, quốc lộ huyết mạch);
2/ Hồ sơ đề nghị khai quang phải nêu rõ lý do xin khai quang, ghi rõ toạ độ mục tiêu và phóng đồ các mục tiêu đó;
3/ Phụ bản tình báo;
4/ Phụ bản tâm lý chiến và dân sự vụ;
5/ Tờ cam kết bồi thường thiệt hại nếu có.
Thành lập Ban Phát triển khả năng tác chiến:
Cũng vào ngày này, Bộ Tổng Tham mưu/Quân lực VNCH ban hành quyết định thành lập Ban Phát triển khả năng tác chiến, sau này (30/12/1962) đổi thành Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến - TTTN/PTKNTC (The Combat Development and Test Center for Creation of New Techniques). Trung tâm có nhiệm vụ: dự toán, tiếp nhận, quản lý, cấp phát hoá chất và một vài chủng loại phương tiện phun rải chất diệt cỏ như bình phun đeo lưng (Hand sprayer); máy phun hoá chất Buffalo Turbine lắp đặt trên xe bọc thép, xe tải, xe hoả hoặc tàu thuyền; máy ủi quang hạng nặng bundoser (Plow Rome) nặng 38 tấn cho các vùng Chiến thuật (VCT), Khu chiến thuật (KCT),Tiểu khu (TK), Quân đoàn (QĐ), Sư đoàn (SĐ).
Ngày 15/8/1960
Hội nghị kế hoạch sơ bộ đã họp ngày 15/8/1960 tại Langley để bàn xin trang bị loại máy bay C.123 với sự có mặt của đại diện BTL Không quân chiến thuật (TAC), Lục quân, Hải quân và Bộ nông nghiệp Mỹ - đại uý Carl W. Marshall, sĩ quan phụ trách Biệt đội phun rải hoá chất trên không (Special Aerial Spray Flight - SASF), người sau đó chỉ huy đơn vị Ranch Hand đã chủ trì buổi họp. Đại uý kiến nghị cải tiến C.123 để có thể phun rải hoá chất diệt côn trùng (insecticides) thể lỏng hay dạng hạt. /E.R. Zumwalt, Báo cáo gửi Bộ Cựu chiến binh.
Năm 1961
Trong thập niên 1950, quân đội Mỹ đã tiến hành các vụ thử nghiệm thực địa nhằm xác định tính khả thi của việc phun rải những chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides) bằng máy bay; những cuộc thí nghiệm phun rải và hoạt động của các hệ thống phun rải trên không đã đặt nền tảng cho các hệ thống phun rải được sử dụng ở Việt Nam sau này.
Năm 1961, Cơ quan các Dự án Nghiên cứu Nâng cao (The Advanced Research Projects Agency - ARPA) của Bộ Quốc phòng Mỹ đã đánh giá tính khả thi của việc làm rụng lá rừng nhiệt đới ở Việt Nam và khuyến nghị rằng các công thức phù hợp phải là 2,4-D và 2,4,5-T cần được khai thác để sử dụng ngay. Dự án này đã có công trong việc phát triển chất diệt cỏ thành một vũ khí quân sự, một ý tưởng được gợi ý bởi những thành công của người Anh dùng 2,4,5-T phá hủy nguồn lương thực trong những cuộc nổi dậy ở Malaysia.
Năm 1961, tức là từ khi Mỹ mới bắt đầu triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” với công thức cố vấn Mỹ cộng quân đội chính quyền Sài Gòn cũ, một số cố vấn quân sự Mỹ có “sáng kiến” sử dụng chất độc hoá học làm rụng lá cây nhằm mục đích khai quang nơi tình nghi có du kích quân Việt cộng ẩn náu.
Kế hoạch 202 (khai quang, phá huỷ hoa màu đối phương) năm 1961 Ngày 8/1/1961:
Từ ngày 8 đến 25/1/1961, một nhóm nghiên cứu và phát triển, đứng đầu là William H. Godel, Phó Cục trưởng Cục các dự án nghiên cứu nâng cao Bộ Quốc phòng (Advanced Research Projects Agency) thăm Nam Việt Nam để thảo luận với các quan chức Việt Nam Cộng hòa về việc thành lập một Trung tâm nghiên cứu và phát triển hỗn hợp Việt - Mỹ. Chuyến thăm phù hợp quy định tại Điều 20 của Chương trình Tổng thống dành cho Việt Nam Cộng hoà. (Tài liệu 56) Trong một cuộc trò chuyện với Godel và McGarr vào ngày 15, Tổng thống Diệm cho biết, trong số những công nghệ quân sự mới (New Military Technologies), ông rất quan tâm đến sự phát triển của một chất làm rụng lá (defoliant) và muốn một trong những phép tăng trưởng nông nghiệp tiếp theo. (Telegram MAGCH - CS 921, ngày 16 tháng 6: Washington National Center Records, RG 330, Lansdale Files: FRC 63 A 1803).
Kết quả của chuyến thăm này là Tổng thống Diệm chỉ đạo các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa thành lập một Trung tâm Thực nghiệm & Phát triển Khả năng tác chiến được chỉ huy bởi một sĩ quan kỹ sư cao cấp, Đại tá Trạch, người đã báo cáo với ông ta (Diệm) thông qua các Tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang. Tướng McGarr đồng tình với khuyến nghị của Nhóm nghiên cứu là một tổ chức riêng biệt được thành lập trong Nhóm tư vấn hỗ trợ Quân sự, một Văn phòng nghiên cứu và phát triển bao gồm 5 người để điều hành các hoạt động chung. Nhóm nghiên cứu cũng đã phát triển một phương châm để thành lập Trung tâm được phê duyệt bởi Tổng thống Diệm và Đại sứ Nolting. Làm việc với đại diện MAAG và các cơ quan QLVNCH, Nhóm nghiên cứu Godel cũng soạn thảo một danh mục ban đầu các vấn đề và các dự án đề nghị được xem xét bởi Trung tâm. Trong một biên bản ghi nhớ ngày 12 tháng 7 gửi Lansdale, Godel báo cáo trên nền tảng và kết quả chuyến thăm của Nhóm NC&PT. Kèm theo biên bản ghi nhớ là một bản sao cho Trung tâm và danh mục các vấn đề và các dự án được đề xuất.
MAAG: Để trợ giúp quân viễn chinh Pháp chống lại Việt Minh, tháng 9 năm 1950, Tổng thống Mỹ Harry Truman đã cử một Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military Assistance Advisory Group) đến Việt Nam. Phái bộ này không thực hiện nhiệm vụ như là những quân nhân chiến đấu, mà là để giám sát việc sử dụng các trang bị quân sự viện trợ trị giá 10 triệu USD để hỗ trợ cho Pháp trong nỗ lực của họ để chống lại lực lượng Việt Minh.
Sau Hiệp định Geneva, quân Pháp rút khỏi Việt Nam. Ngày 12/2/1955, Chính phủ Mỹ quyết định các viện trợ quân sự của Mỹ sẽ chuyển trực tiếp cho Chính phủ Ngô Đình Diệm và trách nhiệm quân sự lớn sẽ được chuyển giao từ người Pháp sang cho MAAG với sự chỉ huy của Trung tướng John O’Daniel. Đến tháng 6 năm 1956, số cố vấn tại MAAG lên tới 740 người, chia làm 3 nhóm ở mỗi quốc gia: Việt – Lào – Campuchia.
Một bản báo cáo tóm tắt của Godel về cuộc viếng thăm của ông đã được gửi tới Hội thảo về Đông Nam Á tại Viện ngoại giao vào ngày 6 tháng 7 năm 1963. Godel đã thảo luận về kết quả chuyến đi của mình đến Việt Nam với Tổ công tác Việt Nam. William Godel, một chuyên gia về kỹ thuật và thực hành chiến tranh tâm lý của Bộ QP Hoa Kỳ. VNCH phản ứng với ý tưởng về một Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến với sự nhiệt tình cao: Đích thân Tổng thống Diệm đã tiến hành không ít hơn ba cuộc phỏng vấn cá nhân với Godei và bổ nhiệm Đại tá Trạch giữ chức Giám đốc Trung tâm. (Ông Trạch được đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Tổng thống). Trong sổ các khí tài quân sự mới được Godel giới thiệu có hệ thống báo động có thể cảnh báo QLVNCH ở khoảng cách 25 dặm. Thí nghiệm khác, một chất làm rụng lá để phát hiện khu vực xâm nhập biên giới. Đây là một hoạt động tốn kém và kéo dài trong ba năm với hiệu quả tối đa. Godel đã nói về các chất hocmon thực vật (2,4-D và 2,4,5-T) để loại bỏ các cây sắn nuôi sống Việt Cộng trong khi hoạt động trong các khu vực miền núi phía Bắc Nam Việt Nam . /Foreign Relation US, 1961-1963, Vol I, Vietnam - Hoạt động Đổi ngoại của Hoa Kỳ, 1961-1963.
Ngày 30/2/1961:
Thành lập Ủy ban 202.
Việc khai quang, phá hủy hoa màu do chính quyền Sài Gòn thực hiện theo chủ trương và với sự viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ thông qua Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (Military Asistance Command, Vietnam-MACV), trách nhiệm thực hiện được chính quyền Sài Gòn giao phó cho một ủy ban mệnh danh là UB-202, thành lập ngày 30/2/1961 trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu/QLVNCH do Trưởng phòng Ba (Phòng Hành quân)/TTM làm Chủ tịch.
MACV được thành lập vào ngày 8/2/1962, về danh nghĩa là cơ quan chỉ huy toàn bộ các lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam, nhưng trên thực tế, có quyền hạn chỉ huy về mặt quân sự toàn bộ các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, Việt Nam cộng hòa (VNCH) và các đồng minh tại Việt Nam; Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Phillipines, Thái Lan, Đài Loan. Chính điều này đã làm Tổng thống Ngô Đình Diệm rất khó chịu và đã tìm nhiều biện pháp để giảm sự ảnh hưởng của MACV đến quyền lực của ông. Đây cũng là một lý do dẫn đến cuộc đảo chính và cái chết của ông ta một năm sau đó.
Các đơn vị trực thuộc MACV:
1- Bộ chỉ huy Lục quân (United States Army, Vietnam - USARV),
2- Bộ Tư lệnh Hải quân (Naval Forces, Vietnam - NAVFORV).
3 - Đệ thất Không lực Hoa Kỳ (Seventh Air Force. Vietnam- 7AF)
4 - Lực lượng Thủy bộ III (III Marine Amphibious Force-III MAF).
5 - Lực lượng dã chiến số 1) I Field Force, Vietnam - I FFV),
6- Lực lượng dã chiến số 2 (II Field Force, Vietnam - II FFV),
7- Quân đoàn 24 (XXIV Corp),
8- Lực lượng đặc nhiệm số 5 ( 5th Special Forces Group),
9- Cơ quan điều phối Dân sự vụ và Phát triển nông thôn) Civil Operations and Rural Development Support — CORDS),
10- Nhóm nghiên cứu và quan sát (Study-and Observations Group- SOG).
Tư lệnh MACV qua các thời kỳ 1962 -1973:
Vùng 1 chiến thuật:
Vùng 1 chiến thuật - Quân đoàn 1 thành lập ngày 1/6/1957, bao gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Bộ tư lệnh Vùng I chiến thuật đóng tại Đà Nẵng. Các khu chiến thuật trực thuộc vùng 1 là khu chiến thuật 11 (Bộ tư lệnh đóng tại Huế) gồm các tiểu khu Quảng Trị và Thừa Thiên; Khu chiến thuật 12 (Sở chỉ huy đóng tại Tam Kỳ) gồm các tiểu khu Quảng Ngãi, Quảng Tín và biệt khu Quảng Nam - Đà Nẵng.
Vùng 2 chiến thuật
Vùng 2 chiến thuật - Quân đoàn 2 thành lập ngày 1/10/1957, hoạt động tác chiến ở toàn bộ vùng cao nguyên miền Trung và vùng duyên hải Nam Trung bộ, bao gồm các tỉnh Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn, Bình Định, Phú Yên, Đắk Lắc, Khánh Hòa, Quảng Đức, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Lâm Đồng và Bình Thuận. Trong vùng 2 chiến thuật có vùng chiến thuật đặc biệt bán tự trị, gọi là Biệt khu 24 đóng tại thị xã Kon Tum do Trung đoàn độc lập 24 đảm nhiệm, bao gồm toàn bộ khu biên giới giáp Lào (thành lập tháng 7/1966 và giải thể tháng 4/1970). Bộ tư lệnh Vùng 2 chiến thuật đóng tại Pleiku bao gồm khu chiến thuật 22 (Bộ tư lệnh ở Quy Nhơn) có các tiểu khu Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn; Khu chiến thuật 23 (Bộ tư lệnh đóng tại Buôn Ma Thuột) gồm các tiểu khu Đắk Lắk, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh Thuận.
Vùng 3 chiến thuật
Vùng 3 chiến thuật - Quân đoàn 3 thành lập ngày 1/3/1959, chính thức hoạt động vào ngày 20/5/1960 bao gồm các tỉnh Phước Long, Bình Dương, Biên Hoà, Bình Long, Long Khánh, Phước Tuy, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An, Sài Gòn và Gia Định thành lập chi khu quân sự riêng. Vùng 3 chiến thuật có Khu chiến thuật 31 (Sở chỉ huy đóng tại Tây Ninh) gồm các tiểu khu Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An; Khu chiến thuật 32 (sở chỉ huy tại Bình Dương) gồm các tiểu khu Bình Long, Phước Long, Bình Dương; Khu chiến thuật 33 (Bộ Tư lệnh tại Biên Hoà) gồm các tiểu khu Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Biên Hoà, Biệt khu Thủ Đô (Sài Gòn - Gia Định)
Vùng 4 chiến thuật
Vùng 4 chiến thuật - Quân đoàn 4 thành lập ngày 1/1/1963, hoạt động tác chiến trên toàn bộ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm gần 1/2 dân cư và đất canh tác miền Nam Việt Nam, gồm các tỉnh Gò Công, Kiến Tường, Định Tường, Kiến Hoà, Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Châu Đốc, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, Chương Thiện, Bạc Liêu và An Xuyên. Vùng chiến thuật đặc biệt bán tự trị 44 nằm trong vùng 4 chiến thuật có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho khu vực phía Tây Bắc đồng bằng sông Cửu Long, dọc biên giới Việt Nam - Campuchia. Hoạt động đến năm 1973 thì giải thể. Vùng 4 chiến thuật có khu chiến thuật 41 (sở chỉ huy ở Mỹ Tho) gồm các tiểu khu Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình; Khu chiến thuật 42 (Bộ tư lệnh ở Cần Thơ) gồm các tiểu khu Kiên Giang, Phong Định, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên; Khu chiến thuật Tiền Giang (Bộ Tư lệnh ở Định Tường) gồm các tiểu khu Định Tường, Kiến Tường, Kiến Hoà, Gò Công...
Ngày 12/4/1961.
Giác thư về Việt Nam gửi Tổng thống Kennedy.
Đầu tháng 5/1961, Tổng thống Kennedy phái Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson tới Sài Gòn để tham khảo ý kiến với Tổng thống Ngô Đình Diệm, Việt Nam Cộng hoà về sự hỗ trợ của Mỹ trong tương lai. Một kết quả của tham vấn này là việc thành lập một Trung tâm thử nghiệm và Phát triển Khả năng tác chiến (CDTC- Combat Development and Test Center) Mỹ/Việt Nam Cộng hòa và phát triển tác chiến tại Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Cơ quan Dự án Nghiên cứu nâng cao của Bộ Quốc phòng (ARPA). Trung tâm CDTC được thành lập để phát triển các phương pháp chống nổi dậy và vũ khí mới, và một trong những nhiệm vụ đầu tiên của nó là để đánh giá việc sử dụng chất diệt cỏ tiêu diệt thảm thực vật nhiệt đới và nguồn cung cấp thực phẩm của đối phương. (Cecil, trang 22-23)
Một bản kiến nghị được trình lên Tổng thống John F. Kennedy đề xuất 9 hoạt động quân sự tại Nam Việt Nam trong đó có việc sử dụng các chất diệt cỏ.
Hàng loạt diễn biến dẫn đến việc đưa C.123 vào Nam Việt Nam phun rải hoá chất diệt cỏ có lẽ xảy ra vào ngày 12/4/1961. Hôm đó Walt W.Rostow, một trong những cố vấn đối ngoại của Tổng thống Kennedy gửi cho Tổng thống một giác thư về Việt Nam. Ông kiến nghị tổ chức một Hội nghị cấp cao trong tương lai gần để xem xét khả năng “đẩy mạnh” hoạt động trong toàn Nam Việt Nam, vì tại đó cuộc bầu cử đã tổ chức xong, Tổng thống Ngô Đình Diệm cần được tự do tiến hành những cải cách đã được kiến nghị trước đây. 9 quy trình hành động đã được ông đề cập trong giác thư của mình. Quy trình 5 nêu lên yêu cầu có một Nhóm nghiên cứu và phát triển trang bị đến Nam Việt Nam để làm việc bên cạnh Trưởng Phái bộ Viện trợ và cố vấn quân sự (MAAG) là Trung tướng Lục quân Lionel C.McGarr nhằm phát hiện công dụng của nhiều loại “kỹ thuật và trang bị” đã có hoặc đang phát triển. Nhưng vấn đề làm rụng lá cây bằng máy bay vẫn là một trong những “kỹ thuật và trang thiết bị” chưa được làm rõ.
Cũng trong tháng 4 này, Roswell L.Gilpatric, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ trình lên Tổng tống John F. Kennedy một giác thư có kiến nghị thành lập một Nhóm đặc nhiệm liên ngành. Những kiến nghị này bao gồm một chương trình đa diện nhằm ngăn chặn Việt cộng chiến thắng ở miền Nam Việt Nam. Tổng thống thông qua kiến nghị này và nhiều kiến nghị khác có giá trị hạn chế về quân sự được ghi trong báo cáo của Nhóm đặc nhiệm tại hội nghị Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 2/9/1961.
Tháng 4/1961
Khởi sự hoạt động Ranch Hand.
Tháng tư năm 1961, Đại úy Carl Marshall, sĩ quan hóa học của Phi đoàn phun rải đặc nhiệm hàng không (Special Aerial Spray Flight) đóng tại căn cứ không quân Langley nhận được một cuộc điều tra như tính khả thi của việc sử dụng các ứng dụng trên không của chất làm rụng lá ở Đông Nam Á. Đại úy Mario Cadori một cựu phi công SASF đã được phái đến từ Hàn Quốc để thiết lập các chương trình đào tạo các phi công KQVN. Bốn phi công có trình độ phun rải của SASF tại thời điểm này đã được bay trên phi cơ C-47 và L-20. Các đơn vị đã nhanh chóng được chuyển sang sử dụng C-123 và tăng cường với bốn phi công hướng dẫn có trình độ cao từ căn cứ không quân Pop.
Ngay sau Lễ Tạ ơn năm 1961, cuộc phiêu lưu bắt đầu. Chúng tôi đã đi đến căn cứ không quân Pop để nhận các phi hành viên bổ sung cần thiết để bay qua Thái Bình Dương. Chúng tôi rời căn cứ không quân Pop với sáu chiếc C- 123s biến thể với “xe téc” chứa bên trong có dung tích 1.000 ga lông chất lỏng. Các téc chứa đã được sử dụng như thùng nhiên liệu cho cuộc hành trình đến Việt Nam. Chúng tôi đến Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, Sài Gòn, Nam Việt Nam vào lúc 17h45 ngày 7/1/1962 để bắt đầu “tour du lịch” nổi tiếng nhất trong lịch sử cho một đơn vị máy bay Không quân Hoa Kỳ không có vũ khí và xác lập mình là đơn vị bị “dính” đạn của đối phương bắn lên nhiều nhất trong chiến tranh ở Việt Nam. Trong tháng 2 năm 1962 phi hành đoàn của chúng tôi mất một phi cơ, trong lúc làm nhiệm vụ huấn luyện. Chiếc C-123 mang số hiệu 384 cùng với ba người bạn của chúng tôi trong lúc làm nhiệm vụ đào tạo đã bị tử nạn. Tháng sau, phi cơ C-123 mang số hiệu 386 bị vết thương đầu tiên trong chiến dịch Ranch Hand.
Ngày 11/5/1961
Tại cuộc họp ngày 11/5/1961 của Hội đồng An ninh Quốc gia, Tổng thống John F. Kennedy lại khẳng định nhiều quyết định có tầm vóc tác động dài hạn. Mục tiêu của Mỹ tại Nam Việt Nam là: “ngăn chặn sự thống trị của Cộng sản ở Nam Việt Nam; thành lập tại quốc gia đó một xã hội có sức sống và ngày càng dân chủ, và trên cơ sở đẩy nhanh tốc độ chủ động tiến hành hàng loạt hành động quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý, và có tính chất bí mật để hỗ trợ lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu này.
Tổng thống đã khẳng định những hoạt động quân sự cụ thể được thông qua trước đây tại Hội nghị của Hội đồng An ninh Quốc gia (National Security Council.- NSC) vào ngày 19/4/1961, và do mối đe doạ an ninh quốc gia tăng sau những sự kiện xảy ra tại Lào làm cho biên giới của nước này với Nam Việt Nam không còn an toàn như trước, Ông đã chuẩn y 5 (năm) hành động bổ sung cần thiết. Chủ trương khai quang làm rụng lá (defoliation) cuối cùng có mối quan hệ với một trong hai hành động sau:
1/ Giúp các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam tăng cường khả năng tuần tra biên giới và chống nổi dậy nhờ thiết lập một hệ thống tình báo và tuần tra biên giới có hiệu quả;
2/ Giúp Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập Trung tâm Phát triển &Thực nghiệm khả năng tác chiến (The Combat Development and Test Center for Creation of New Techniques) tại Nam Việt Nam để phát triển những kỹ thuật chống các lực lượng Việt cộng.
Nhiệm vụ của Trung tâm này là: trực tiếp tìm kiếm, phát triển, thử nghiệm những vũ khí mới hoặc là nâng cấp những trang thiết bị sử dụng trong môi trường Đông Dương vốn hạn chế bởi những điều kiện chính trị, tâm lý (như đã từng bị Cộng sản cáo buộc về việc Mỹ tiến hành chiến tranh vi trùng (sinh học) tại Triều Tiên).
Hai kiến nghị trên được đề cập trong thư của Tổng thống John F. Kennedy ngày 8 tháng 5 năm 1961 và được Tổng thống Ngô Đình Diệm đồng ý công bố trong một Thông cáo chung với Phó tổng thống Lyndon B. Johnson ngày 13 tháng 5 năm 1961 và trong thư riêng gửi Tổng thống John F. Kennedy ngày 15 tháng 5 năm 1961.
Ngày 12/5/1961
Phó Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson tới Sài Gòn gặp Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm. Trong các quyết định đưa ra lần này có nhắc đến việc thành lập một Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển Khả năng Tác chiến nhằm phát triển những kỹ thuật mới trên cơ sở những công nghệ mới sử dụng chống lại lực lượng Việt cộng. Trung tâm này có nhiêm vụ xem xét việc sử dụng chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides – chất diệt cỏ dùng vào mục đích chiến tranh) để huỷ diệt các khu rừng nơi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và bộ đội miền Bắc ẩn trú, đồng thời huỷ hoại cây lương thực của họ.
Ngoài ra, những hoạt động nói trên (khai quang, phá hủy hoa màu) cũng nhằm mục đích sử dụng vũ khí hóa học như một phương tiện để thúc đẩy chính sách quân sự và đối ngoại của Hoa Kỳ ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Ngày 15/5/1961
Sau khi John F. Kennedy nhậm chức Tổng thống Mỹ, Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) đã họp và ra tuyên bố “Để ngăn chặn Cộng sản xâm lược Nam Việt Nam, quyết định sử dụng chất diệt cỏ (herbicides) và các kỹ thuật tân kỳ khác để kiểm soát các đường bộ và đường thuỷ dọc theo biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia”.
Ngay sau đó, một Phái đoàn quân sự do cố vấn trưởng Walt W. Rostow dẫn đầu được phái tới Nam Việt Nam để triển khai thực hiện ý đồ nêu trên.
Trong cuộc họp ngày 3 tháng 7 năm 1961 tại Phòng BA (Phòng Hành quân)/Bộ TTM/QLVNCH, Đại tá cố vấn Mỹ Chilson thông báo: “vào ngày 13 tháng 7 tới sẽ có 2 chuyên viên hoá học từ Hoa Kỳ sang để thực hiện phun rải thí nghiệm các chất diệt cỏ: Dinoxol và Trinoxol. Dụng cụ và chi viện của Hoa Kỳ đều sẵn sàng hoạt động vào ngày 1 tháng 8 năm 1961. Phái bộ Viện trợ và Cố vấn quân sự Hoa kỳ (Military Advisor Assistance Group - (MAAG) đề nghị sử dụng một chiếc máy bay AD - 6, hai chiếc trực thăng H - 34 và một chiếc C- 47; đồng thời lựa chọn khu vực trắc nghiệm trước”…
Tháng 6/1961
Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển Khả năng Tác chiến hỗn hợp Mỹ - Việt. (The Joint US./Vietnamese Combat Development and Tets Center) được thành lập ở Sài Gòn.
Ngày 10/7/1961
Kế hoạch khai quang của MAAG
Với sự xâm nhập của Việt cộng vào sâu vùng trung tâm của Nam Việt Nam bằng cách lợi dụng sự che phủ của thiên nhiên, tại sở chỉ huy của Phái bộ Viện trợ và Cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MAAG), người ta đã đặt ra yêu cầu phải loại bỏ khả năng che phủ của lá rừng vào tháng 7 năm 1961. Lúc bấy giờ, kế hoạch chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu làm rụng lá dọc theo các trục giao thông liên lạc, kênh đào và những trục đường chính, để ngăn chặn các cuộc tập kích và ngăn cản quân đội đối phương sử dụng những con đường sống còn này. /AO.59 – 7/.
Giữa năm 1961, Phi đội Đặc nhiệm phun rải đường không (Special Aerial Spray Flight SASF) nhận được 2 máy bay C.123 để các phi công kiểm tra và thực hành thí nghiệm phun rải từ trên không. Phi đội gồm 4 phi công, 1 chuyên viên côn trùng học, 1 trợ lý cho chuyên viên côn trùng học, 1 văn thư và 20 nhân viên bảo hành.
Vào tháng 7, suy nghĩ đã chuyển từ những khái niệm chung về: “kỹ thuật và công cụ” thành những kiến nghị cụ thể, kể cả sử dụng chất làm rụng lá. Một báo cáo tình hình, tính đến ngày 10 tháng 7 năm 1961, nhấn mạnh rằng: Nhóm Nghiên cứu và Phát triển đã chú ý đến vấn đề muốn quản lý có hiệu quả hơn vùng biên giới Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn những phần tử thù địch bằng cách sử dụng hoá chất làm chết cây để dọn sạch những “đốm lửa” dọc biên giới. Cũng trong tuần kết thúc vào ngày 10 tháng 7 năm 1961, hoá chất làm rụng lá cây được chuyển đến Sài Gòn cho Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến mới được thành lập làm thí nghiệm.
Bắt đầu từ tháng 7 năm 1961, các trang bị và hoá chất được hối hả chuyển vào Nam Việt Nam qua cảng Sài Gòn.
Một trong những tài liệu về chiến tranh Việt Nam đã được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ giải mật gần đây, đó là tài liệu “A Review of the Herbicides Program in South Vietnam”. Trong tập tài liệu này, ý định và lý do việc phun rải hoá chất khai quang tại những khu rừng rậm và khu thưa dân được Chính phủ Hoa Kỳ giải thích tương đối rõ ràng, ý định đầu tiên về chiến dịch khai quang ở Việt Nam đã nảy sinh từ tháng 7 năm 1961. Giới hữu trách Hoa Kỳ lúc bấy giờ đã nghĩ rằng phương pháp khai quang có thể sử dụng để gia tăng khả năng và tầm quan sát dọc theo các trục lộ giao thông và đồng thời chặn đứng đường tiếp tế lương thực của đối phương.
Ngày 8/8/1961
Lựa chọn mục tiêu
Sau buổi họp tại Kon Tum, BTL Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) đồng ý chấp thuận chọn quận Đắc Tô làm thí điểm phun rải chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides).
Ngày 10/8/1961
Phi vụ phun rải thí điểm thứ nhất
Một chiếc trực thăng sơn cờ vàng 3 sọc đỏ của Không lực Sài Gòn đã bay dọc theo quốc lộ 14 từ thị xã Kon Tum lên Đắc Tô. Đây là chuyến bay phun rải chất độc hoá học đầu tiên ở chiến trường Nam Việt Nam. Trên trực thăng H-34 có lắp thiết bị phun FIDAL (Fixed Wing Insectiside Dispersal Appatus Liquid). Đợt thí nghiệm này phải mất 3 ngày mới hoàn tất vì thiếu phương tiện.
Ngày 11/8/1961
Phi vụ phun rải thí điểm thứ hai
Vào lúc 11h, BTL Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) lên Kon Tum phun thử chất Trinoxol lên cây khoai lang, sắn, chuối và cỏ tranh ngay sau Tỉnh đường Kon Tum. Đến 12h45, tất cả các loài thảo mộc đều bị héo rũ. Cuộc thử nghiệm này hoàn toàn có kết quả nên TTTN/PTKNTC đã đề nghị Hoa Kỳ viện trợ thêm hoá chất khai quang này.
Ngày 15/8/1961
Phun rải hóa chất dạng bột
Trong khuôn khổ kế hoạch Staley - Taylor nhằm bình định Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng, Không quân Mỹ đã phun rải xuống vùng Nop, phía tây huyện Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận một loại bột màu trắng, khi rơi xuống toả ra như sương mù, huỷ hoại mùa màng. Cũng vào thời gian này, hoá chất khai quang được phun rải dọc đường 15 nối liền Biên Hoà - Vũng Tàu để giải toả con đường này lúc đó đang bị quân du kích kiểm soát.
Ngày 18/8/1961
Tổng thống Mỹ đi thị sát thực địa
Tổng thống John F. Kennedy cùng cố vấn quân sự - Đại tướng Tera đi thị sát thực địa tuyên bố rằng “...trong vòng 18 tháng sẽ bình định Nam Việt Nam và tấn công ra miền Bắc Việt Nam"./Sách NB-VN Osaca 45 năm.
Ngày 24/8/1961
Ngô Đình Diệm lựa chọn mục tiêu khai quang
Một máy bay của quân đội Sài Gòn đã thực hiện chuyến bay phun rải hoá chất khai quang (Dinoxol) đầu tiên bằng máy bay có cánh cố định (C.47) xuống một quãng đường ở phía bắc Sài Gòn. Mục tiêu này do Tổng thống Ngô Đình Diệm đích thân lựa chọn, trên một địa bàn dài 80 km, dọc theo QL.13 bắc Sài Gòn, gần làng Chơn Thành. Cả hai phi vụ thứ nhất dọc QL.14 và phi vụ thứ hai dọc QL.13 đều sử dụng chất diệt cỏ Dinoxol /AO.77- 27/. Biệt đội phun rải hoá chất trên không đã cung cấp thiết bị phun rải cho máy bay C.47 của Không quân Sài Gòn, đồng thời cử Thượng sĩ Leon o. Roe đến Nam Việt Nam để lắp đặt. Đại uý Mario D.Cadori phi công rất có kinh nghiêm phun rải hoá chất từng công tác tại Biệt đội khi hoạt động trong khu vực thuộc quyền Bộ Tư lệnh Không quân thuộc BTLThái Bình Dương (CINPAC) đến huấn luyện phương pháp bay và phun rải tầm thấp cho phi công quân đội Sài Gòn đang bay thí nghiệm trên C.47. /The Ait Force and Herbicides in SEA/.
Ngày 28/8/1961
3 chiếc máy bay Mỹ phun rải chất độc hoá học xuống xã Áp Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bình Long làm nhiều người trong xã bị đau đầu dữ dội và khó thở, nhiều gia súc bị chết hoặc ốm; cây ăn quả và cây lương thực bị héo rũ, chết khô.
Ngày 23/9/1961
Thông điệp của Chính phủ Hoa Kỳ
Bộ Quốc phòng và Chính phủ Hoa Kỳ ra thông điệp chung nhấn mạnh phải tiến hành khẩn cấp các hoạt động hỗ trợ chính quyền Sài Gòn. Thông điệp đề xuất triển khai chương trình Khai quang. Cũng vào thời gian đó, Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến đã soạn thảo một Chương trình tác chiến quy mô lớn trên cơ sở những kết quả thuận lợi của những thí nghiệm lên cây sắn và lá rừng. Kế hoạch có 4 mục tiêu:
- Làm cho biên giới Campuchia, Lào và Bắc Việt Nam không còn lá cây để che phủ lực lượng đưa tăng cường cho Việt Cộng;
- Làm rụng lá một phần của Đồng bằng sông Cửu Long có tên gọi là Chiến khu D là nơi Việt Cộng có nhiều căn cứ;
- Phá huỷ các nương sắn hoang mà Việt Cộng dùng làm thực phẩm;
- Phá huỷ các khu rừng ngập mặn mà Việt Cộng dùng để cư trú.
Chiến dịch sẽ dược thực hiện qua hai giai đoạn:
Giai đoạn I: Trong vòng 30 ngày làm rụng lá dược 20% Chiến khu D và vùng biên giới Campuchia lân cận, các nương sắn và các khu rừng ngập mặn;
Giai đoạn II: Trong vòng 90 ngày, sau khi kết thúc giai đoạn I, tiếp tục làm rụng lá 80% còn lại của Chiến khu D, toàn bộ biên giới tiếp giáp với CPC và Lào, các nương sắn và rừng ngập mặn còn lại do Việt Cộng chiếm giữ.
Trong cả hai giai đoạn, Kế hoạch này dự kiến sẽ làm rụng lá khoảng 31.250 dặm vuông rừng. Đó là một diện tích bằng một phần nửa Nam Việt Nam (!). Ngoài ra, kiến nghị còn kêu gọi phun rải hoá chất trên 1.125 dặm vuông rừng ngập mặn và 312 dặm vuông diện tích trồng sắn. Kế hoạch này cũng đòi hỏi khu vực bị phun rải sẽ bị thiêu đốt khi cây cối bị khô héo đủ mức.
Chi phí do Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến đề nghị là 75 - 80 triệu USD và thực tế là mức tiêu thụ chất diệt cỏ vượt quá khả năng sản xuất hiện thời ở Mỹ, điều này cho thấy quy mô của nó rất lớn.
Trong nội bộ Bộ Quốc phòng Mỹ có những tiếng nói chống lại Chương trình này, nhưng không được ai chú ý. /The Air Force and Herbicides in SEA/.
Sau đó vài ngày, một Chương trình làm rụng lá khác quy mô nhỏ hơn do các quan chức Mỹ tại Sài Gòn soạn thảo ra đã thay thế Chương trình quy mô lớn nêu trên.
Ngày 29/9/1961
Ngô Đình Diệm bàn bạc sử dụng chất khai quang với Phái đoàn Mỹ
Trong vài tuần tiến hành thử nghiệm đầu tiên, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bàn sử dụng hoá chất diệt cỏ cho nhiều mục tiêu khác nhau. Ngày 29/9/1961 tại Dinh Độc Lập, Sài Gòn, ông Diệm và các cố vấn đã gặp Phái đoàn Mỹ gồm đại sứ F.E.Nolting, Tướng McGarr, Trưởng Phái bộ MAAG - Việt Nam, Đô đốc H.D.Felt, Tư lệnh Thái Bình Dương. Họ đã thảo luận nhiều vấn đề và đến cuối thì chuyển sang tình hình tăng gia sản xuất của Việt Cộng. Tổng thống Diệm tỏ rõ quan tâm một thực tế là nhiều vùng đất sâu xa rộng lớn đã bị Việt Cộng lợi dụng cưỡng bức người Thượng khai hoang và trồng lúa. ông ta nói chỉ trong vòng một tháng, kẻ thù có thể thu hoạch được nhiều lương thực. Do đó, ông đề nghị phải ngay lập tức tìm cách phá huỷ vụ mùa trước khi chúng thu hoạch. Diệm nói rằng ông có nghe nói đến loại bột có thể sử dụng để phá hoại lúa, nhưng trước hết Tổng thống Kennedy phải chấp thuận cho sử dụng hoá chất đó. Sau khi thảo luận, kết luận cuối cùng là các cố vấn của Diệm đã nhầm lẫn giữa một chất diệt cỏ sẵn có với những hoá chất có tác dụng mạnh hơn và nằm trong danh mục vũ khí huỷ diệt hàng loạt (NBC - Hạt nhân, Sinh học và Hoá học). Tuy nhiên, Diệm nhấn mạnh rằng ông không quan tâm cái gì được sử dụng nếu như chúng có thể làm cho Việt Cộng không thể tăng gia trong những vùng sâu, vùng xa./AO. 20-37/.
Ngày 30/10/1961
Bộ Ngoại giao VNDCCH tố cáo.
Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã gửi công hàm cho 103 nước trên thế giới tố cáo Hoa Kỳ kể từ năm 1954 cho đến nay đã đưa hàng ngàn nhân viên quân sự và hàng chục tấn vũ khí và chất độc hoá học để giết hại dân thường và phá hoại mùa màng ở Nam Việt Nam.
Tháng 10/1961
Phá hoại mùa màng với tư cách là một vũ khí.
Trong tháng 10 năm 1961 đã có 6 máy bay vận tải C.123 được chuyển giao cho Tư lệnh không quân chiến thuật tại căn cứ Clark Firth, Philipines của Không lực Hoa Kỳ.
Vấn đề phá hoại mùa màng với tư cách là một vũ khí trong loại chiến tranh du kích không hề bị bỏ qua ngay từ thời điểm đầu tiên này, Cùng với việc khai quang làm rụng lá, mục tiêu phá hoại mùa màng cũng đã được xem xét trong tháng 10 năm 1961. Cơ sở biện minh chủ yếu được đặt ra vào lúc này và sau đó tiếp tục biện minh cho chương trình này là: loại trừ khả năng tiếp cận của Việt cộng với các nguồn lương thực tiếp tế từ nông dân địa phương bổ sung cho số được đưa từ miền Bắc Việt Nam vào. Vấn đề trực tiếp trước mắt ở trong một nước cơ bản là nông nghiệp như Viêt Nam là các vụ mùa bị phá hoại sẽ gây tổn thương cho dân lành và có thể tác động rất lớn đến lòng trung thành của họ đối với chính quyền Sài Gòn vốn là một nền tảng không có gì vững chắc cả.
Hoạt động phá hoại mùa màng bằng hóa chất đòi hỏi không quân VNCH sử dụng trực thăng H-34 phun rải lên những vùng được chọn lọc kỹ. Ngoài ra, phía Việt Nam phải kiểm soát việc lựa chọn mục tiêu và đảm bảo khả năng bảo trì cho các máy bay. Mỹ sẽ cung cấp chất khai quang đến tận cảng bốc dỡ cũng như các hoạt động tư vấn, bảo hành kỹ thuật. Trưởng Phái bộ MAAG và Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã đồng ý rằng chương trình đã có đủ điều kiện để tiến hành thực nghiệm. Một chương trình chiến tranh tâm lý đã được vạch ra để chống lại những tác động do hoạt động tuyên truyền của cộng sản chắc chắn sẽ xảy ra. /Project CORONA HARVEST, AO.59 - 10/.
Ngày 3/11/1961
Báo cáo của Tướng Taylor- đại diện quân sự của Tổng thống gửi Tổng thống.
Thưa Tổng thống: Tôi gửi kèm báo cáo chuyển đi của tôi đến thăm Nam Việt Nam, Thái Lan và Hồng Công trong thời gian từ 15/10 đến 3/11/1961.
“Khai quang bằng sức người” (“Human Defoliation”). Để thay thế cho việc chia cắt Chiến khu D bằng hóa chất khai quang, một khuyến cáo được đưa ra để xem xét, đó là việc trao một quyết định khai thác gỗ tại chiến khu D cho một công ty thương mại của Trung Hoa dân quốc (Đài Loan) - Formosa, công ty này có thể là một công ty phi lợi nhuận, sử dụng các cựu chiến binh Trung Hoa dân quốc (tuổi từ 35-40), họ có thể được trang bị để tự vệ (hoặc trò chơi săn bắn). Gỗ cứng tại chiến khu D tốt cho khai thác, gỗ ở đây được tiêu thụ trên thị trường Việt Nam cũng như ở nước ngoài. Nếu muốn công ty Đài Loan có thể hoạt động chung với các Cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa. Khi gặp lực lượng Việt cộng lớn, quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ mở một cuộc tấn công. Các thợ đốn cây có thể đối phó với một lực lượng nhỏ đối phương. Một hoạt động như vậy sẽ có lợi ích nâng cao tinh thần Formosa, mặc dù hoạt động đội lốt dân sự nhưng giải quyết một phần của vấn đề cựu chiến binh được đặt ra. /Foreign Relations US, 1961-1963, Vol 1, Vietnam, 1961 - Quan hệ Đổi ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963, Tập 1, Việt Nam, 1961/.
Ngày 3/11/1961
Triển khai Chương trình khai quang 3 giai đoạn.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert s. McNamara nhận lệnh triển khai Chương trình Khai quang, phá huỷ hoa màu tại Nam Việt Nam theo 3 giai đoạn. Robert s. McNamara yêu cầu các chỉ huy lực lượng Không quân ưu tiên cung cấp các máy bay C-123 (Fairchild), nhân lực và hoá chất cho chiến dịch Ranch Hand.
Trong một giác thư đề ngày 3/11/1961, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân đã khuyến nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert s. McNamara rằng Đô đốc Felt - Tư lệnh BTL Thái Bình Dương phải được phép triển khai kế hoạch khai quang rụng lá giai đoạn 3 có tính chất hạn chế nói trên. Giác thư của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân cũng nhấn mạnh rằng những hành động này phải được thực hiện, hiệp đồng với những cuộc tấn công phối hợp vào lực lượng Việt cộng. Tuy nhiên, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân (JGS) cũng cảnh báo về khả năng phá hoại mùa màng, khi tiến hành các hoạt động khai quang rụng lá bằng máy bay trên những mảnh đất trồng sắn hoang hoặc vùng trồng cây lương thực khác phải hết sức cẩn thận không để Mỹ thành mục tiêu bị tố cáo là tiến hành chiến tranh hóa học và sinh học. Liên quan đến vấn đề này, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân khuyến nghị rằng các hoạt động phải có ngụy trang đồng thời với mở chiến dịch tuyên truyền như Nhóm Đặc nhiệm tại Việt Nam phác họa ở Sài Gòn.
Khuyến nghị sau cùng này cũng phản ánh sự ngờ vực của Tướng Lyman L. Limitzer - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân về giá trị của chương trình phá hoại hoa màu ở Việt Nam. Mấy tháng trước đó, ông đã viết thư cho Tướng M. Taylor, cố vấn quân sự của Tổng thống Kennedy và lưu ý không nên quá so sánh rập khuôn giữa kinh nghiệm của người Anh tại Malaysia với tình hình mà Chính phủ Diệm đang đối phó tại Việt Nam. Ông chỉ ra rằng ở Malaysia lương thực thường khan hiếm, nên chương trình ngăn chặn của người Anh trở nên quan trọng và là vũ khí có thể sử dụng ngay được. Limitzer đã đối chiếu với tình hình lương thực tương đối dồi dào ở Nam Việt Nam, và do đó ông nghi ngờ về tính hiệu quả của chiến dịch ngăn chặn lương thực.
Ngày 7/11/1961
Văn thư trả lời của Bộ trưởng Quốc phòng.
Ngày 7/11, Bộ trưởng McNamara đã trả lời những khuyến nghị của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân. Ông cũng quan tâm đến khả năng tác động ngược chiều về tuyên truyền, nhưng ông không giới hạn mức quan tâm ở giai đoạn ngăn chặn lương thực. Ông đã yêu cầu Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn nhận xét khả năng thuyết phục Tổng thống Ngô Đình Diệm chịu nhận trách nhiệm về chương trình được đề nghị và ban hành một tuyên bố rõ ràng trước công chúng, nêu lên lập luận mà lúc ấy mọi người đều tin là việc phun rải chất khai quang sẽ không nguy hại cho gia súc và con người. Trong khi tìm cách bào chữa chương trình khai quang trước luận điệu tuyên truyền chống lại, Bộ trưởng Mc.Namara nói rằng ông không thể quyết định tiến hành hay không. Tuy nhiên, ông cũng nhận ra những hạn chế về thời gian thực hiện ý định tấn công phá hoại hoa màu của Việt cộng đang chín rộ nhanh. Để bảo vệ sự lựa chọn của mình, Bộ trưởng Mc.Namara đã chỉ thị cho không quân “trên cơ sở ưu tiên, cung cấp các máy bay, nhân lực và hóa chất cần thiết”. Ông đã giao nhiệm vụ giám sát dự án cho Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (CINPAC).
Bộ trưởng Quốc phòng Mc.Namara, tuyên bố trong một giác thư gửi Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, là ông ta tin rằng hóa chất được phun rải không có hại cho người và gia súc. /AO.37B-17/. Năm 1967, Giám đốc Cơ quan Nghiên cứu và Kỹ thuật quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng, John s. Foster tuyên bố với Hội những người Mỹ vì tiến bộ khoa học rằng các nhà khoa học nổi tiếng đã coi là việc sử dụng các chất diệt cỏ ở Việt Nam không gây ra những nguy hiểm gì cho môi sinh cả. (và tới năm 1968, Foster nói rằng Bộ Quốc phòng vẫn còn tin rằng chất diệt cỏ không gây ảnh hưởng xấu kéo dài lên dân chúng Nam Việt Nam).
Ngày 17/11/1961
Chủ đề: Sử dụng hóa chất khai quang ở Việt Nam.
Bản ghi nhớ của Robert Harold Johnson (quan chức Hội đồng An ninh Quốc gia) gửi Trợ lý đặc biệt của Tổng thống về an ninh Quốc gia (Rostow)
Tôi (Robert H. Johnson) nghĩ rằng nếu chúng ta (Hoa Kỳ) sẽ đối phó thành công với cáo buộc mà chúng ta đang tham gia vào chiến tranh vi trùng (germ) hay chiến tranh hóa học thì chúng ta phải công khai các hoạt động sử dụng chất khai quang tại Việt Nam càng sớm càng tốt.
Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court - ICC) sẽ có thể kiểm tra từng thùng hóa chất để xác định rằng đó là những gì mà chúng ta nói. Nếu chúng ta theo đuổi chính sách để cho Tòa án hình sự quốc tế tìm hiểu cho là chúng ta đang vi phạm các Hiệp ước Geneva (Geneva Accords), điều này có thể là không thể. Sẽ là khó khăn, trong mọi trường hợp, để có được ICC đồng ý với bất kỳ hành động như vậy. Một cách tiếp cận thay thế sẽ được giao cho một số Tổ chức quốc tế khác hoặc một nhóm các nhà khoa học tư nhân. Phải công khai nhấn mạnh rằng các tác nhân hóa học liên quan là cùng loại được sử dụng bởi người nông dân Mỹ để diệt cỏ dại.
Dự toán chi phí cho chương trình này dường như đã tăng liên tục. Hồi đầu tuần này, tổng chi phí cho giai đoạn I - phá hủy mùa màng là 4 triệu USD (1 triệu cho hóa chất, 3 triệu cho các phi vụ phun rải bằng máy bay), bây giờ tăng lên 10-15 triệu USD. Ước tính tổng chi phí cho cả 3 giai đoạn là 70 triệu USD. Giai đoạn tiếp theo là khai quang rụng lá có chọn lọc tại chiến khu D và các tuyến đường giao thông nối Sài Gòn với các thành phố quan trọng khác, và khai quang những cánh rừng dọc theo biên giới Nam Việt Nam - Campuchia.
Tôi không chắc là Tổng thống đang được yêu cầu chấp thuận tất cả ba giai đoạn, về mặt chính trị, khai quang rụng lá khu vực xung quanh chiến khu D và dọc theo các tuyển đường giao thông đến các thành phố có vẻ như ít khó khăn nhất. Nguy cơ chính trị trong hoạt động sử dụng chất khai quang là việc sử dụng hóa chất có thể biến người dân không cộng sản có cây trồng bị vô tình phá hủy chống lại chính quyền Sài Gòn. Tất nhiên, đó là một trong những nhược điểm của tất cả ba giai đoạn đề xuất. /Bộ Ngoại giao, s/p Files: Lot 67 D 548, Sept. - Dec. 1961/.
Ngày 17/11/1961
Tờ trình của Neilson - Trợ lý Giám đốc Viễn Đông gửi cho Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ (Murow).
Chủ đề: Sử dụng chất khai quang ở Việt Nam
Tôi xin thông báo rằng Bộ Quốc phòng đã soạn thảo một Tờ trình gửi Nhà Trắng nhằm tìm kiếm quyết định của Tổng thống về việc sử dụng các chất làm rụng lá ở Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhận được sự đồng thuận của Bộ Ngoại giao trước khi trình lên Tổng thống. Một nhân viên của tôi đã nhìn thấy Tờ trình trong Văn phòng của Tổ công tác (Task Force) Việt Nam hôm qua.
Tờ trình đã liệt kê hai mục tiêu chính trong việc sử dụng chất làm rụng lá:
a) Phá hoại hoa màu, cắt nguồn cung cấp thực phẩm cho Việt Cộng.
b) Thiết lập một một khu vực núi trọc dọc theo biên giới Việt Nam (với Campuchia, Lào hoặc cả hai) để kiểm soát Việt Cộng xâm nhập.
Tờ trình cũng liệt kê những yếu tố tiêu cực, chủ yếu là tâm lý, cần được xem xét trong quá trình ra quyết định.
Tôi (Nielson) không biết liệu các yếu tố sau đây đã được xem xét cho đến nay trong quá trình ra quyết định ở Washington:
Việc sử dụng vũ khí hóa học tại một quốc gia châu Á có thể tạo ra một cơn bão chỉ trích rằng: Lợi thế quân sự trước mắt trên mặt đất ở Việt Nam có thể được bù bằng một vụ thu hoạch ác ý có hại cho một số mục tiêu dài hạn ở Việt Nam và khu vực (Đông Nam Á). Tất nhiên, Khối Cộng sản sẽ sử dụng cam kết của Mỹ và Tổng thống Diệm làm “vốn” cho công tác tuyên truyền như họ đã làm để cáo buộc Mỹ sử dụng vũ khí sinh học ở Triều Tiên.
Ngày 21/11/1961
Sử dụng chất diệt cỏ
Giác thư của Phó Trợ lý đặc biệt của Tổng thống về vấn đề an ninh quốc gia (Walt Rostow) gửi Tổng thống Kennedy.
Tổng thống sẽ nhận được các văn bản từ Bộ Quốc phòng và Chính phủ để sớm đưa ra câu trả lời liệu chúng ta có nên hỗ trợ việc sử dụng một loại chất diệt cỏ để phá hoại mùa màng tại các khu vực trên cao nguyên, đặc biệt là đối với một cuộc tấn công vào chiến khu D. Quyết định của Tổng thống là cần thiết vì đây là một loại vũ khí hóa học. (Quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963 ,Tập I, Việt Nam , 1961: Tài liệu 265).
Ngày 24/11/1961
Giác thư của Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ trình Tổng thống
Chủ đề: Hoạt động chất làm rụng lá ở Việt Nam
Tôi đồng tình với biên bản ghi nhớ đính kèm của ông Gilpatric về chủ đề nói trên. Việc sử dụng các chất làm rụng lá không vi phạm bất kỳ quy tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến việc tiến hành chiến tranh hóa học và là một chiến thuật được chấp nhận trong chiến tranh. Tiền lệ đã được thiết lập bởi người Anh trong tình trạng khẩn cấp tại Malaysia trong việc sử dụng máy bay trực thăng phun rải hóa chất để phá hủy cây trồng. Tất nhiên, chúng ta sẽ là đối tượng của Cộng sản về một cuộc "chiến tranh sinh học". Tổng thống sẽ nhớ lại rằng đây là trường họp trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, mặc dù những cáo buộc của Cộng sản không có cơ sở thực tế bất cứ điều gì.
Mặt khác, tôi hài lòng rằng các hoạt động Ranch Hand thành công tại Việt Nam có thể được hỗ trợ đáng kể trong việc kiểm soát và làm thất bại Việt Cộng. Thực hiện các hoạt động Ranch Hand sẽ được lên kế hoạch và phối hợp giữa Chính phủ, Bộ Quốc phòng, USIA, CINCPAC, Bộ Ngoại giao, và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa một cách cẩn thận. Kế hoạch chi tiết về vấn đề này đã được xây dựng.
Vì vậy, tôi khuyên Tổng thống nên chấp nhận các cam kết của các hoạt động đó theo quy định tại khoản 8 (b) trong giác thư của ông Gilpatric; có nghĩa là "đi trước với một chương trình chọn lọc và kiểm soát chặt chẽ bắt đầu với phun rải chất khai quang các tuyến đường giao thông trọng điểm, sau đó tiến hành phá hoại mùa màng bằng hóa chất và chiếm giữ chiến khu D và khu vực biên giới.
Tôi cũng đồng tình trong đề nghị của ông Gilpatric rằng điều này nên được thực hiện chỉ sau khi xem xét một cách thận trọng về kế hoạch phát triển bởi Tư lệnh Thái Bình Dương (CINCPAC) và Bộ Ngoại giao. Dean Rusk /xem NSAM số 115 trong Hoa Kỳ - Hệ Việt Nam, 1945-1967, quyển II, p.425. Quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963, Tập I, Việt Nam, 1961: Tài liệu 275.
Ngày 27/11/1961
Lương thực là mục tiêu tấn công của chất khai quang
Tạp chí Mỹ News Week đưa tin, các máy bay Mỹ đã phun rải nhiều chất độc hoá học xuống đồng ruộng Nam Việt Nam để phá huỷ hoa màu. Đối với Mỹ, chiến tranh Việt Nam và chương trình “bình định nông thôn” là gần như đồng nghĩa với nhau. Việc sử dụng chất diệt cây, phá huỷ hoa màu mà Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc luôn luôn ủng hộ là một mặt của chính sách đó. Mặc dù, họ đã nhận thấy rằng, việc phá huỷ hoa màu của đối phương là vi phạm Luật pháp quốc tế và là một tội ác chiến tranh.
Chất diệt cỏ đã được thí nghiệm đầu tiên ở Việt Nam từ tháng 8 năm 1961. Cuộc thảo luận về việc sử dụng chất diệt cỏ đã lập tức dẫn đến mối lo sợ bị “lên án” là dã man vì thực hiện một hình thức của chiến tranh hoá học. Nhưng, lập luận của phái “diều hâu” trong Lầu Năm Góc đã thuyết phục được Tổng thống và tháng 11 năm 1961, Chương trình khai quang đã được bắt đầu và “đánh” cả vào mùa màng nhằm cắt đứt nguồn tiếp tế của Cộng sản.
J.H. Rothschild khi ở cương vị Tư lệnh Binh chủng Hoá học thuộc Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ ở Viễn Đông cho rằng: “Lương thực là một mục tiêu tấn công của chất độc hoá học”. Những cố gắng nhằm giảm bớt việc cung cấp lương thực của đối phương rất có ý nghĩa trong mọi cuộc chiến tranh. Biện pháp thông thường là phong toả, ngăn chặn sự cung cấp lương thực từ bên ngoài hoặc huỷ hoại cây lương thực và đất đai canh tác tại chỗ. Cuối chiến tranh Thế giới lần thứ II, Không quân Mỹ đã có kế hoạch sử dụng các chất diệt cỏ để huỷ hoại những cánh đồng lúa rộng lớn xung quanh ngoại ô 6 thành phố lớn của Nhật Bản: Tokyo, Iocohama, Ôxaca, Nagoia, Kyoto và Kobe. Song chưa kịp thực hiện thì chiến tranh đã chấm dứt.
Ngày 30/11/1961
Tổng thống Kennedy chuẩn y đồng khuyến nghị
Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy chính thức chuẩn y đồng khuyến nghị của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng tiến hành một Chương trình khai quang bằng chất diệt cỏ chiến thuật (Tactical Herbicides, Herbicide war) quy mô lớn trong chiến tranh Việt Nam. /AO. 8-13/. Cả hai Bộ này chủ trương dùng chất diệt cỏ chiến thuật chỉ nhằm phát quang mà thôi, rõ ràng họ đã nhận thấy rằng việc phá hoại mùa màng của kẻ thù là vi phạm luật pháp quốc tế và là một tội ác chiến tranh, và do đó không còn muốn công khai chấp nhận một chương trình như vậy. /Đơn kiện của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam/.
Ngay từ rất sớm trong cuộc xung đột ở Việt Nam, Chính phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu tìm kiếm khả năng sử dụng chất da cam nhằm loại trừ khả năng lợi dụng thảm thực vật che phủ để xâm nhập vào miền Nam Việt Nam. Cuối năm 1961, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã khuyến nghị Tổng thống Kennedy rằng quân đội muốn tiến hành một chương trình khai quang, Tổng thống đã nhanh chóng chấp thuận khuyến nghị đó vào ngày 30/11/1961, chuẩn y việc phát động các chiến dịch chất diệt cỏ ở Việt Nam.
Operation Trail Dust là tên của toàn bộ chiến dịch chất diệt cỏ, bao gồm trong đó có chiến dịch Ranch Hand của Không quân Hoa Kỳ. Chiến dịch Ranch Hand này bắt đầu các phi vụ khai quang vào tháng 1/1962. Các phi vụ nhằm vào phá hoại hoa màu cỏ tác dụng nuôi sống các lực lượng đối phương được bắt đầu vào tháng 11 năm đó.
Cả hai Bộ này đều chủ trương dùng chất diệt cỏ nhằm đơn thuần khai quang rụng lá và họ hoàn toàn nhận rõ việc phá hoại mùa màng của kẻ thù là vi phạm một cách rõ ràng Luật quốc tế và là một tội ác chiến tranh.
Tổng thống Kennedy ra lệnh buộc mọi triển khai chương trình diệt cỏ (herbicidal program), phun rải trên mọi mục tiêu đều phải được Nhà Trắng đồng ý trước.
Bộ trưởng Quốc phòng đánh giá hoạt động khai quang
Các chất diệt cỏ đã có hiệu lực đáp ứng những mục tiêu quân sự quan trọng của lực lượng Hoa Kỳ và Đồng minh ở Việt Nam. Đúng như cách giải thích của trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng William Lemos đã nhấn mạnh: “Một trong những vấn đề khó khăn nhất trong hoạt động quân sự ở Việt Nam là thiếu khả năng quan sát kẻ thù ở trong các khu rừng rậm”. Sau khi tổng kết các hoạt động diệt cỏ của quân đội, Đô đốc Lemos lúc ấy đã kết luận: “Kết quả là các lực lượng của chúng ta đã có thêm khả năng hoàn thành nhiệm vụ của họ với những thương vong của người Mỹ và Việt Nam giảm xuống đáng kể”. Một trợ lý Bộ trưởng khác đã giải thích rằng “việc sử dụng chất diệt cỏ ở Việt Nam là phù hợp và chỉ có mục đích duy nhất là cứu sinh mạng người Mỹ và đồng minh chúng ta”.
Tranh cãi quanh chủ đề khai quang
Tuy nhiên, chương trình chất diệt cỏ (herbicidal program) đã gây ra nhiều tranh cãi, đó là điều mà những người ra quyết định đã công nhận ngay từ đầu. Nhưng bất chấp mọi lo ngại là bộ máy tuyên truyền Cộng sản sẽ đặc trưng hóa chương trình này như là một dạng chiến tranh vi trùng hay hóa học, các nhà vạch chính sách vẫn kiên trì theo đuổi quyết định của mình trong việc sử dụng chất diệt cỏ vì những lợi ích quân sự to lớn có thể có được. Họ cũng nhất quán kết luận rằng việc sử dụng chất diệt cỏ của quân đội ở Việt Nam có thể được phép thể theo những hiệp ước hiện hành và luật tập quán quốc tế. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Dean Rush đã tư vấn cho Tổng thống Kennedy vào năm 1961 rằng “việc sử dụng các chất khai quang không vi phạm bất cứ luật quốc tế nào liên quan đến chiến tranh hóa học và là một chiến thuật đã được công nhận”.
Quyết định sử dụng chất diệt cỏ quân sự trong chiến tranh Việt Nam đã được Tổng thống Ngô Đình Diệm ủng hộ nồng nhiệt. Ông ta cho rằng: “Ông ta biết Cộng sản đang ở đâu và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mỹ mãn”. Ngược lại với quan điểm của Ngô Đình Diệm, nhiều giới chức cấp cao có thế lực trong Bộ Ngoại giao Mỹ như Roger Hilsman (trước là Giám đốc Tình báo và Nghiên cứu ở Bộ Quốc phòng, hiện là giáo sư ở Trường đại học Columbia) và W. Averell Harriman phản đối quyết định của Tổng thống John F. Kennedy, vì họ cho rằng không có cách gì để biết được là Chiến dịch khai quang (Operation Ranch Hand) sẽ chỉ “khai quang”, hay đồng ruộng của nông dân sẽ bị tiêu huỷ. Cả hai ông đều lý giải rằng, nếu Mỹ dùng hoá chất trong cuộc chiến tranh Việt Nam, thì họ (Việt Nam) sẽ có lý do để tố cáo Hoa Kỳ là chủ nghĩa đế quốc dã man.
Sau khi đi khảo sát vấn đề này ở Nam Việt Nam về đã tuyên bố “Việc khai quang gây bất lợi về chính trị”. Mặc dầu vậy, chiến dịch khai quang vẫn được thực hiện. /Phạm Cao Dương, Ảnh hưởng của chất khai quang ở miền Nam Việt Nam/.
Ngày 6/12/1961
Kế hoạch khai quang dọc biên giới Việt-Miên-Lào
Cuối năm 1961, Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển Khả năng Tác chiến soạn thảo và đệ trình lên Bộ Tổng tham mưu (Quân lực VNCH) một kế hoạch khai quang rộng lớn dọc theo biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia với diện tích khoảng 31.250 dặm vuông (8.000.000 ha).
Trung tá Lữ Lan, Trưởng phòng BA/ Bộ TTM được chỉ định phụ trách việc soạn thảo Kế hoạch khai quang và phá hủy hoa màu của Việt Cộng (Defoliation and crop destruction programs). Việc soạn thảo kế hoạch này có sự tham gia của Bộ Tư lệnh Hành quân, Bộ Tư lệnh Không quân và BTL VTQSHK tại Việt Nam (MACV) Kế hoạch được hoàn tất vào ngày 6/12/1961…
Ngày 14/12/1961
Điện tín từ Bộ Ngoại giao gửi Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Chủ đề hoạt động khai quang.
Bộ Quốc phòng chuẩn bị cho các hoạt động khai quang giai đoạn đầu tiên khi nhận được kế hoạch từ CINCPAC và Washington. Hoạt động khai quang đầu tiên nhằm khai quang rừng rậm dọc đường và những con đường mòn được sử dụng bởi Quân lực VNCH cho các hoạt động chống nổi dậy. Bộ trưởng Quốc phòng đã tuyên bố rằng ông mong muốn các hoạt động này bắt đầu ngay sau khi nhận được kế hoạch Washington phê duyệt. Dự đoán báo chí yêu cầu giải thích kế hoạch khai quang dọc quốc lộ, chúng tôi đề nghị trả lời như sau: Ghi nhận du kích Cộng sản sử dụng lề đường bụi rậm để phục kích xe buýt dân sự, xe tải và xe khách, làm đường giao thông không an toàn cho việc đi lại hàng ngày của người dân của đất nước, Chính phủ VNCH đã yêu cầu Mỹ hỗ trợ trong chương trình khai quang rụng lá rừng rậm dọc hai bên đường của Việt Nam bằng các phương tiện của Mỹ. Giải phóng mặt bằng đường sẽ giúp Quân lực VNCH trong tuần tra đường để bảo vệ người dân và sẽ tạo điều kiện duy trì an ninh bình thường. Hoạt động liên quan đến việc sử dụng các hóa chất tương tự như những người Mỹ sử dụng hàng ngày cho việc trừ cỏ dại tại Hoa Kỳ. Khi mọi người biết từ kinh nghiệm của chúng tôi, các chất làm rụng lá giống 2,4-D không gây hại cho người, động vật hoặc đất. Chúng tôi tin rằng điều quan trọng để nhấn mạnh rằng hoạt động này, chúng tôi chỉ đơn thuần là khai quang rừng rậm dọc bên đường rằng chúng ta không tấn công bất cứ mục tiêu của con người, và rằng mục đích chính của nó là để ngăn chặn các lực lượng du kích từ việc sử dụng những khu rừng này để phục kích lực lượng VNCH. Chúng tôi cũng dự đoán rằng hoạt động chiến tranh tâm lý dưới mặt đất đặt trong mối liên hệ với các hoạt động khai quang thảm thực vật dọc đường giao thông này sẽ thiết lập một khuôn khổ trong đó chúng ta có thể chống lại sự bùng nổ tuyên truyền của cộng sản trong tương lai cho các giai đoạn khác của hoạt động khai quang rụng lá, tức là, khai quang chiến Khu D, biên giới giáp Campuchia và cuối cùng là phá hủy hoa màu bằng hóa chất.
(Quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963 , Tập I, Việt Nam , 1961: Tài liệu 321).
Ngày 4/12/1961
Quyết định chiến dịch Khai quang (Operation Ranch Hand) chính thức bắt đầu ngày 15 tháng 12. Trên 15.000 lít chất Hồng (Pink) và chất Xanh (Blue) đã sẵn sàng tại Tân Sơn Nhất, Sài Gòn.
Ngày 15/12/1961
Một chuyến tàu chở 416.360 lít chất Đỏ tía, còn gọi là chất Tím (Purple) và 185.465 lít chất Hồng (Pink) rời cảng Oakland, California tới Sài Gòn, Việt Nam.
Ngày 16/12/1961
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ McNamara tổ chức một Hội nghị ở Hawai với các Tư lệnh khu vực Thái Bình Dương để kiểm tra công tác chuẩn bị cho chiến dịch Ranch Hand và thực hiện các quyết định tiếp theo của chiến dịch /Philip W. Grove, Văn phòng BQP HK/.
Ngày 20/12/1961
Bộ Tổng Tham mưu (Quân lực VNCH) ban hành Sự vụ văn thư “Công tác diệt trừ cây cỏ” (thể thức, đề nghị, nhu cầu) trong đó có đoạn “Việt Nam đang xúc tiến nhận một số hoá chất viện trợ dùng để tiêu diệt bất kỳ loại thực vật nào trong các vùng đã rắc thuốc sau một thời gian từ 2 đến 15 ngày.
1/ Phân loại và mục tiêu công tác:
a) Công tác số 2 (2R): Phá hủy hoa màu, ruộng rẫy của Việt Cộng. Công tác này cần thực hiện trong thời gian gieo hạt cho đến khi gặt hái. Phương tiện sử dụng: trực thăng neo tại chỗ trên không để phun thuốc, cần bảo đảm an ninh tối thiểu cho trực thăng khi làm nhiệm vụ.
b) Công tác số 20 (20T và 20P): Tiêu diệt mọi thứ cây cối để khai quang các mật khu, chiến khu của Việt Cộng cùng các vùng rậm rạp hay trú ngụ; mở các hành lang trống địa trên các đường giao liên Việt Cộng và dọc theo biên giới Việt Nam để cản trở sự đi lại của Việt Cộng bằng phi cơ khu trục tuần thám hoặc bằng các đơn vị tuần tiễu hoặc đóng đồn; khai quang các vùng rậm rạp xung quanh các đồn bốt, các yếu khu, yếu điểm, các trục chiến lược hiểm yếu quân ta (nguỵ) vẫn qua lại mà địch có thể ẩn nấp để bất ngờ tấn công ta.
2/ Phương tiện sử dụng:
Một số phương tiện chính:
1/ Máy bay vận tải các loại: C.123, C.47, Dacota, Canbera... lắp thiết bị phun FIDAL (Fixed Wing Insecticide Dispersal Apparatus Liquid);
2/ Trực thăng H.34, HE.l, HU.1A, HU. 1B lắp thiết bị phun HIDAL (Helicopter Insecticide Dispersal Apparatus Liquid) hoặc AGAVENCO (Agricultural Aviation Engineering Company);
3/ Máy phun hoá chất PDDA ( Power Driver Decontaminating Apparatus) nhãn hiệu” “Đầu Trâu” (Buffalo Turbine) lắp đặt trên các phương tiện vận tải thuỷ (ca nô, thuyền), bộ (ôtô, xe lửa).
4/ Bình phun tay (Hand sprayer nhãn hiệu Hudson).
Ngày 20/12/1961
SỰ VỤ VĂN THƯ
Số 1785/P3/TTM/BQP (QĐVNCH)
Công tác diệt trừ cây cỏ (Thể thức đề nghị, nhu cầu)
I/ Đại cương:
Việt Nam Cộng hoà đang xúc tiến nhận một số hoá chất viện trợ dùng để tiêu diệt bất kỳ loại thực vật nào trong các vùng sẽ rắc thuốc sau một thời gian từ 2 đến 15 ngày.
II/ Phân loại và mục tiêu công tác.
Công tác số 2.
- 2.R: Phá huỷ hoa màu, ruộng rẫy của Việt Cộng. Công tác này cần thực hiện trong thời kỳ gieo giống cho đến khi gặt hái. Điểm đặc biệt công tác rắc thuốc cần phải chính xác nên thường dùng trực thăng bay thấp, neo tại chỗ trên không để phun thuốc, nên cần có sự an ninh tối thiểu cho phi cơ.
Công tác số 20:
- Tiêu diệt mọi thứ cây cỏ bị khai quang:
- 20.T: Các Chiến khu, Mật khu của Việt Cộng cùng các vùng rậm rạp chúng thường trú ngụ;
- 20.T: Mở các hành lang trống địa trên các đường giao liên Việt Cộng và dọc theo biên giới Việt Nam để cản trở sự đi lại của chúng bằng phi cơ khu trục tuần thám hoặc bằng các đơn vị tuần tiễu hoặc đóng đồn.
- 20.P: Khai quang các vùng rậm rạp bao quanh các đồn bốt, các yếu khu, yếu điểm (khu căn cứ, địa điểm trọng yếu), các trục chiến lược hiểm yếu ta vẫn qua lại mà địch có thể ẩn nấp để bất ngờ tấn công ta.
III/ Phương tiện và thể thức sử dụng
Những phương tiện chính:
Phi cơ (vận tải, trực thăng, khu trục, thám thính);
Xe kéo lắp thiết bị phun Buffalo Turbine (có thể đặt trên xe tải, ca nô, tàu hoả v.v...);
Nhân viên và dụng cụ mang vai (Hand Sprayer - bình phun đeo lưng).
- Đối với những khu vực rộng lớn tối thiểu 1.000 x 5.000m sẽ dùng phi cơ bay nhanh, thường dành cho việc mở các hành lang trống địa hoặc khai quang rừng;
- Đối với khu vực nhỏ hẹp (vài km2) sử dụng phi cơ trực thăng hoặc phi cơ quan sát, thường dành cho việc tiêu huỷ ruộng rẫy của Việt Cộng;
- Đối với khu vực cần chính xác tối đa dùng trực thăng hay cơ giới hoặc nhân viên đi bộ, thường dành cho việc khai quang trục giao thông, đồn bốt, yếu khu, yếu điểm.v.v.
- Tại các vùng rừng rậm, sau khi phun rải chất khai quang cho cây chết khô (thường phải làm 3 lần cho các tầng cây từ cao đến thấp và xuống đến bụi cỏ) sẽ dùng phương pháp đốt (napalm, xăng) để biến khu vực khai quang thành trống địa.
Ngày 28/12/1961
Điện tín từ Tư lệnh Thái Bình Dương (Felt), gửi Tư lệnh Bộ Tư lệnh viện trợ Quân sự tại Việt Nam - McGarr.
Chủ đề: Hoạt động chất làm rụng lá
1. Để đáp ứng với quyết định tại cuộc họp ngày 16 tháng 12, một kế hoạch sử dụng chất làm rụng lá là cần thiết, trong đó đặt ra mục tiêu rõ ràng của các hoạt động và các khu vực cụ thể cho các hoạt động ban đầu. Khái niệm của chúng tôi là một hoạt động sử dụng chất làm rụng lá nên được phát triển với mục đích sau đây;
- Để hỗ trợ các hoạt động chống nổi dậy;
- Tăng cường khả năng quan sát trên không của khu vực được lựa chọn trong lãnh thổ do Việt Cộng kiểm soát,
- Để hỗ trợ các trận địa hỏa lực và tăng cường tầm quan sát; để làm giảm khả năng phục kích.
2. Các hoạt động sử dụng chất khai quang ban đầu nên được thiết kế với mục đích ngắn hạn, nhưng với mục tiêu cụ thể để cung cấp cho chúng ta một cơ hội để đánh giá sự thành công của nó và do đó giới hạn xác định tính hợp lý các hoạt động này trong tương lai.
3. Với mục đích ngắn hạn, tôi đã phát triển kế hoạch sau đây cho mục tiêu hạn chế ban đầu hoạt động khai quang:
1. Tình hình: Các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang chuẩn bị để thực hiện một chiến dịch để loại bỏ Việt cộng ở một số tỉnh trên toàn miền Nam Việt Nam. Để hỗ trợ các hoạt động chống nổi dậy này, hoạt động khai quang đã được thực hiện để loại bỏ thảm thực vật dọc theo các đường giao thông thủy bộ huyết mạch.
2. Nhiệm vụ: Để xóa thảm thực vật đến một khoảng cách 200 mét ở cả hai bên của đường giao thông chính bằng các phương tiện phun rải trên không và mặt đất.
A. Khái niệm:
(1) Ưu tiên cho khai quang thảm thực vật dọc theo các đường giao thông liên lạc giữa Sài Gòn và các thành phố lớn bao gồm đường giao thông ngoại vi đến Chiến khu D. Hoạt động khai quang sẽ được tiến hành bởi Mỹ và VNCH, sử dụng phương tiện phun rải trên không (C-123, trực thăng) và dưới mặt đất (Buffalo turbine, Hand sprayer).
(2) Không quân Hoa Kỳ với máy bay vận tải C-123 gắn thiết bị phun rải trên không sẽ xuất phát từ sân bay Tân Sơn Nhất.
(3) Các nhiệm vụ cụ thể, phương pháp phun và thời gian thực hiện sẽ được xác định bởi CHMAAG dựa trên nhu cầu của chỉ huy chịu trách nhiệm về việc thực hiện các hoạt động chống nổi dậy.
(4) Giai đoạn này của các hoạt động sẽ không bao gồm việc phá hủy hoa màu, và hoạt động khai quang sẽ được thực hiện để đảm bảo rằng khu vực đó đều tránh được. Ngoài ra, các hoạt động tâm lý chiến được thiết kế để phủ nhận các tài liệu tuyên truyền cộng sản cũng sẽ được tiến hành song song. Các hoạt động này sẽ cung cấp cho một lời giải thích về việc sử dụng chất làm rụng lá như là một liên kết phi quân sự để cải thiện và duy trì mạng lưới giao thông.
(Quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963 , Tập I, Việt Nam , 1961 : Tài liệu 343. )
Tác nhân Trắng (White) và Xanh lục (Green) chứa tạp chất độc hại khác ngoài dioxin, đó là hexachlorobenzen (HCB), một hoá chất cực kỳ độc và bền vững, cũng là một sản phẩm nằm ngoài mong muốn. Viện Y học Mỹ (Institute of Medicine - IOM) khẳng định rằng ô nhiễm HCB có trong Picloram đã gây nên các u gan. HCB được biết là chất độc trong thập niên 60, thế kỷ XX. Trước hết là do đã có nhiều vụ nhiễm độc HCB ở Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1955 đến 1958.
Theo quy định của Bộ Môi trường (EPA) Hoa Kỳ về nhãn mác cảnh báo đối với Picloram (có trong thành phần của chất Trắng- White) tính đến tháng 2 năm 1999 phải ghi rõ “Chất độc nguy hiểm” bằng mực màu đỏ trên một nền phản diện mạnh, dưới đó là chiếc đầu lâu và cặp xương ống bắt chéo, cùng với câu nhắc nhở “Nguy hiểm đối với người và gia súc”. Nhãn mác cảnh báo theo quy định của EPA dành cho chất Tordon 101 (ít tác nhân Trắng hơn nhiều) từ năm 1970 đã nhấn mạnh rằng : “Không làm ô nhiễm nước, không tàng trữ gần các loại lương thực, thực phẩm và nếu trúng độc qua đường tiêu hoá có thể gây tổn thương mắt, da. Rửa sạch sau khi sử dụng.
Năm 1961, dành ưu tiên khai quang, phá huỷ hoa màu đối phương tại Chiến khu C, Chiến khu D và các Mật khu đối phương ở các tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hoà; các ruộng rẫy ở Pleiku, Kon Tum, Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận, Quảng Đức và Lâm Đồng.
Từ tháng 8 qua tháng 12 năm 1961, nhân viên quân sự Hoa Kỳ đã sử dụng máy bay của quân đội Sài Gòn tiến hành một số hoạt động thí nghiệm phun rải chất diệt cỏ chiến thuật có tính chất hạn chế nhưng khá thành công trên vùng đất phía nam Việt Nam.
NĂM 1962
Ngày 1/1/1962
Mục đích khai quang
New York Times cho biết: Mỹ sẽ áp dụng chiến thuật phun rải hoá chất độc có tác dụng làm rụng lá cây, làm cho du kích cộng sản không có nơi ẩn náu và cắt đứt nguồn tiếp tế của họ.
Mục đích của Mỹ rất rõ ràng, khi mà quân đội Mỹ - VNCH không còn kiểm soát nổi địa phương nào đó nữa thì phải phá huỷ toàn bộ mùa màng để làm cho dân chúng đói khổ, buộc phải quỳ gối đầu hàng.
Ngày 2/1/1962
Giác thư của Bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara trình Tổng thống Kennedy
Chủ đề: Hoạt động chất làm rụng lá tại Việt Nam.
Chương trình hoạt động khai quang rụng lá tại Việt Nam: Các hoạt động khai quang được bắt đầu với việc xóa bỏ thảm thực vật dọc các tuyến đường giao thông chính và sau đó là phá hủy hoa màu. Các hoạt động khai quang được đề xuất trong chiến khu D và khu vực biên giới đã không được thực hiện cho đến thời điểm này. Một kế hoạch cụ thể nhằm loại bỏ thảm thực vật dọc các tuyến đường trọng điểm đã được phát triển bởi CINCPAC. Hoạt động sử dụng chất khai quang hạn chế ban đầu nhằm cung cấp một cơ hội để đánh giá sự thành công của nó và do đó xác định tính hợp lý của hoạt động khai quang trong tương lai.
Ngày 7/1/1962
Các máy bay Fairchild C.123 đã đến căn cứ không quân Clark, Philipines từ ngày 6/12/1961. Tại đó chúng phải bí mật chờ giải quyết thủ tục ngoại giao để bay vào Việt Nam. Vào lúc 22h30 ngày 7/1/1962, 3 trong số 6 máy bay đã được phép bay đến Tân Sơn Nhất. Ba máy bay này là bước khởi đầu cho việc ra đời của Phi đoàn 12 đặc nhiệm. Kể từ ngày này sân bay Tân Sơn Nhất trở thành nơi cất hạ cánh của máy bay khai quang UC.123 - tức máy bay C.123 có lắp đặt các thiết bị phun rải và thùng chứa 1.000 ga lông (1 ga lông = 3,785 lít) chất diệt cỏ. Đồng thời, sân bay Tân Sơn Nhất còn là một trong những khu vực tồn trữ ngoài trời hàng chục ngàn thùng phuy chất diệt cỏ dung tích 55 ga lông (208 lít).
Tính năng kỹ thuật của một số phương tiện phun
Ngày 8/1/1962
Chuyến hàng đầu tiên
Chuyến tàu hàng đầu tiên chở chất diệt cỏ chiến thuật đến cảng Sài Gòn, từ đây chúng được vận chuyển về phi trường khai quang Tân Sơn Nhất.
Ngày 10/1/1962
Khởi sự chiến dịch Ranch Hand (Operation Ranch Hand).
Ngày bắt đầu chiến dịch Ranch Hand, khoảng 220 gallon chất diệt cỏ quân sự băng màu Tím (Purple) đã phun rải lên một mục tiêu phía bắc quốc lộ 15 tiếp giáp với một khu vực rộng lớn mà máy bay C.47 của Không quân VNCH đã phun rải chất Hồng (Pink) vào ngày 29/12/1961. Hiệu quả được đánh giá là thấp, chất Tím có thể gây chết người.
Lưu ý: Hơn một thập kỷ trước người Pháp đã hủy hoại thảm thực vật hai bên lề đường này bằng tay (phát quang sang 2 bên đường mỗi bên 50m và đốt sau đó) trong một nỗ lực không thành công để ngăn chặn các cuộc phục kích các đoàn xe quân sự của họ.
Ngày 12/1/1962
Thể thức lựa chọn mục tiêu khai quang
Không quân Hoa Kỳ khởi sự chiến dịch Ranch Hand nhằm phát lộ những con đường và những lối mòn được Việt Cộng sử dụng.
Mục tiêu khai quang được chọn lựa theo yêu cầu của Tỉnh trưởng, Tư lệnh hành quân Mỹ hoặc một Tư lệnh của Quân lực VNCH và được bố trí nhân lực từ cấp quận, tỉnh tới Bộ TTM, MACV và Toà Đại sứ theo các thể thức được nêu trong hướng dẫn 521-1 của MACV về các chiến dịch dùng chất diệt cỏ quân sự. Các dự án của chương trình đã được thông qua trong tóm tắt cuối cùng tại một buổi họp phối hợp do Bộ TTM triệu tập có nhân viên MACV- J3 (Khối hoá học) và các sĩ quan hoá học sư đoàn tới dự.
Việc chấp thuận tiến hành các chiến dịch sử dụng chất diệt cỏ ở Nam Việt Nam nhằm mục đích bảo đảm tối đa hiệu quả của chất độc lên các mục tiêu đã chọn (20T, 20P và 2R).
Các chiến dịch sử dụng chất diệt cỏ quân sự được phê chuẩn theo hai cách: Thông thường, một hay nhiều mục tiêu trong khu vực được phê chuẩn phun rải chất diệt cỏ (herbicide) hoặc chất làm rụng lá (defoliant) phá huỷ mùa màng, và trong các chuyến bay riêng biệt được gọi là các phi xuất do không quân Hoa Kỳ tiến hành trong chiến dịch Ranch Hand trên cơ sở ưu tiên. Tất cả các nhiệm vụ tiến hành với các mục tiêu phải được soạn thảo thành kế hoạch. Kế hoạch sử dụng chất khai quang được phê chuẩn trong vòng 6 tháng (20T), kế hoạch 2R - phá huỷ hoa màu -12 tháng. Cả hai có thể kéo dài hơn 6 tháng. Các trường hợp khác, khi thấy cần thiết sẽ có các phê duyệt riêng hiệt.
Quá trình phê chuẩn, cũng giống như các trường hợp khác, theo yêu cầu của cả chính quyền Nam Việt Nam và Mỹ ở một tỉnh (Tiểu khu).
Ngày 13/1/1962
3 chiếc C.123 chính thức bắt đầu chiến dịch Ranch Hand phun rải chất diệt cỏ chiến thuật tại Nam Việt Nam.
Ngày 20 - 25/1/1962
Đánh giá kết quả khai quang QL15
Họp UB-202 tại P3/TTM/QLVNCH có đại diện MAAG và Sư đoàn 2 Không quân Hoa Kỳ tới dự để thảo luận về:
- Tác dụng của hóa chất đối với mục tiêu đã phun rải chất khai quang dọc quốc lộ 15 (Biên Hòa - Vũng Tàu);
- Vấn đề kỹ thuật, thời tiết, hướng gió đã gây ảnh hưởng của hóa chất với những vùng kế cận mục tiêu đã phun hóa chất;
- Ấn định việc trắc nghiệm trên QL1 và thiết lộ xuyên Việt mỗi nơi một khu vực khoảng 100 dặm.
Một Phái đoàn gồm Trưởng phòng 3/TTM, Trưởng phòng 5/TTM, 1 sĩ quan P2/TTM, 1 sĩ quan P3/TTM và 1 sĩ quan TTTN&PTKNTC đi thám sát bằng đường bộ dọc QL15 để xem xét kết quả khai quang, khởi hành lúc 8h ngày 22/1.
BTL hành quân trình bản đề nghị và phóng đồ về công tác 202 của Khu chiến thuật 11, 12, 23. Tư văn của Nha Thông tin lưu ý UB.202 về luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của VC và phản ứng của dân chúng có đất đai hoa màu bị nhiễm hóa chất khai quang.
Ngày 29/1/1962
Công tác 2R Biên Hòa-Vũng Tàu
Văn thư của Đồng Lý Văn phòng BQP/VNCH - Trần Hữu Đức Gửi: Trung tướng Lionel c. McGarr, Trưởng Phải bộ MAAG VN.
Tôi đã được Bộ TTM/Quân lực VNCH thông báo rằng một thỏa thuận là cần thiết liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ công tác 2R (phá hủy hoa màu VC) sau giai đoạn hoạt động của công tác 20 T (khai quang rụng lá) tiến hành dọc theo quốc lộ 15 nối Biên Hòa - Vũng Tàu kết thúc. Tôi muốn thông báo cho Ngài rằng chính phủ VNCH yêu cầu một hoạt động như là một phương tiện loại bỏ tất cả các loại cây lương thực cho VC. Hướng dẫn được trao cho Bộ tham mưu Không quân/Quân lực VNCH để tránh tổn thất có thể xảy ra với các loại cây trồng của dân chúng và cũng để ngăn chặn các rắc rối về chính trị và tâm lý.
Tỷ lệ tối ưu 2,4-D và 2,4,5-T trong chất da cam
Tháng 1/1962, Không quân Hoa Kỳ bắt đầu giai đoạn thực hành Chương trình khai quang ở Việt Nam sử dụng chất Đỏ Tía (Tím- Purple). Sau đó vào cuối năm, một Nhóm nghiên cứu đã kết luận rằng với tỷ lệ hỗn hợp 50/50 hai chất 2,4-D và 2,4,5-T thì chất diệt cỏ có hiệu quả nhất - chất da cam.
Các quy định chính thức của 2,4-D và 2,4,5-T đã được quân đội soạn ra và công bố. Những quy định đó đã xác lập những đặc tính về thiết kế và cụ thể của hỗn hợp 2,4-D và 2,4,5-T mà chính phủ yêu cầu. Những quy định như vậy cũng được sử dụng sau này làm cơ sở cho việc mua sắm của quân đội. Chính phủ đã cung cấp cho các nhà sản xuất những bản sao các quy định và đã tích hợp vào trong các hợp đồng chất da cam của các nhà sản xuất.
Chính phủ cũng đã quy định một cách nghiêm ngặt ký hiệu đánh dấu được ghi trên các thùng (phuy) đựng chất diệt cỏ của các nhà sản xuất. Tên của chất diệt cỏ tương ứng với vòng sơn màu rộng 3 inch (2,54 cm X 3) mà Chính phủ yêu cầu thể hiện bên ngoài các thùng chứa chất diệt cỏ trong đó; dung tích của thùng là 55 gallon (gallon = 3,78 lít). Ngoài vòng sơn màu, Chính phủ đã nghiêm cấm các nhà sản xuất không được ghi bất cứ câu chữ, ký hiệu hoặc hình thức nhận dạng nào khác trên thùng chứa.
Ngày 2/2/1962
Thành lập Bộ Tư lệnh Viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV)
Tổng thống Mỹ John F. Kennedy ký sắc lệnh chính thức thành lập MACV (Millitary Assistance Command - Vietnam) Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam - MACV đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (CTNPAC), có sở chỉ huy tại Hawaii, chứ không phải trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân ở Washington. MACV chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động của Mỹ ở Việt Nam thay thế cho Phái bộ Cố vấn và Viện trợ (MAAG -Millitary Advisor Assistance Group) trước đây, tức là tiếp tục đảm nhiệm vai trò cố vấn cho quân đội chính quyền Sài Gòn và trực tiếp chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam bao gồm: Tập đoàn Không quân số VII, còn gọi là Đệ nhất Không lực Hoa Kỳ, Lực lượng Thuỷ bộ III (Thuỷ quân lục chiến), Lực lượng đặc nhiệm V, Lực lượng Dã chiến I và II, Quân đoàn 24 và nhiều lực lượng hỗn hợp theo các Chương trình bình định. Trong thành phần của MACV có đầy đủ các khối (ngành) như: Tham mưu, Tác chiến, Hâu cần, Quân báo, Quân Y, Pháo binh, Công binh, Hoá học.
Khối Hoá học (Chemical Operation Division - COD) có nhiệm vụ:
- Đề xuất các khuyến nghị kỹ thuật về phun rải chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides) cho Bộ chỉ huy Đệ thất Không lực Hoa Kỳ;
- Giám sát Phi đoàn 12 Biệt động làm nhiệm vụ phun rải chất diệt cỏ chiến thuật;
- Làm chức năng cố vấn cho Ngành (Khối) Hoá học Quân lực Việt Nam Cộng hòa;
- Phát triển, đề xuất kế hoạch và tổ chức bộ máy cho các cuộc hành quân có sử dụng vũ khí hoá học tại Nam Việt Nam.
Ngày 2/2/1962
Giác thư của Bộ trưởng Quốc phòng McNamara gửi Tổng thống Kennedy (Memorandum from The Secretary of Defense (McNamara) to President Kenndy).
Washington 2/2/1962.
Chủ đề: Hoạt động khai quang (defoliation) tại Việt Nam
Ngày 3/1/1962, Tổng thống đã cho phép bắt đầu hoạt động khai quang thử nghiệm có giới hạn tại Việt Nam. Các hoạt động khai quang tiến hành từ 13- 16/1/1962 dọc đường 15 nối liền Sài Gòn - Vũng Tàu (đoạn đường bị phun hóa chất dài 32 km). Ba tuần sau, một số phân đoạn ngắn trong đoạn bị phun lần trước được phun lại một lần nữa. Đánh giá kết luận của cả hai lần thử nghiệm này có thể được thực hiện chỉ sau khi những ảnh hưởng của lần phun thứ hai được quan sát thấy.
Chính phủ VNCH đã đồng thời tiến hành một chiến dịch tuyên truyền trong khu vực thử nghiệm. Đến nay đã không có phản ứng bất lợi nào ở Nam Việt Nam về hoạt động khai quang. Phản ứng của các nước không cộng sản là tưong đối nhẹ. Ngày 21/1/1962, Đài Phát thanh Moscow cáo buộc Mỹ - Diệm sử dụng vũ khí hóa học để phá hủy lương thực, thực phẩm ở Nam Việt Nam. Đài Phát thanh Bắc Kinh cũng đề cập đến chủ đề này vào ngày 13/1/1962. Liên tiếp trong các ngày 19 và 24/1/1962, Đài Phát thanh Hà Nội nhấn mạnh sự tàn phá tài nguyên thiên nhiên và các loại cây trồng bằng cách phun hóa chất độc hại. Trước đó vào ngày 6/11/1961, Đài Phát thanh Hà Nội đã cáo buộc Mỹ sử dụng vũ khí hóa học chống lại nhân dân Việt Nam.
Sự đa dạng của các thảm thực vật tìm thấy ở Việt Nam bao gồm các loài không bao giờ chịu tác động bởi chất diệt cỏ (cây tre, luồng, cây thông..). Chúng tôi kiểm tra tất cả các thảm thực vật, cũng như hiệu quả của kỹ thuật làm rụng lá (defoliant) trong từng trường hợp cụ thể, trước khi tiếp tục với một chương trình quy mô rộng lớn hơn.
Tư lệnh Thái Bình Dương và Trưởng Phái bộ MAAG tại Việt Nam đề nghị mở rộng chương trình thử nghiệm bao gồm 6 mục tiêu bổ sung. Các mục tiêu bổ sung được thể hiện trên bản đồ đính kèm:
1-Đường từ biển tới căn cứ tại Bình Hưng, dài 6,4 km. Thảm thực vật ở đây là rừng ngập mặn.
2-Vành đai sân bay Biên Hòa. Thảm thực vật gồm cây bụi, rừng cỏ, tre và cây gỗ mềm.
3-Vành đai sân bay Nhân Cơ (tỉnh Quảng Đức, nay là Đắc Nông). Thảm thực vật ở đây là rừng rậm thường niên xanh, lá rộng .
4-Vành đai kho đạn thành Tuy Hạ. Thảm thực vật cây bụi, cỏ nhiệt đới.
5-Phân đoạn (15 km) QL 15. Thảm thực vật - cây bụi tăng trưởng, cây cọ (palmgrove) và cây gỗ phân tán.
6-Phân đoạn 12 km QL14. Thảm thực vật: Rừng nhiệt đới thường niên xanh.
Khuyến nghị chương trình thử nghiệm mở rộng này được sự đồng thuận của Bộ Ngoại giao.
Robert s. McNamara
Ngày 2/2/1962
Máy bay khai quang đầu tiên C.123 gặp tai nạn tại Việt Nam
Phi hành đoàn Ranch Hand gồm Đội trưởng (captain) Fergus C.Groves, Đội phó Robert D. Larson và nhân viên, trung sĩ Milo B. Coghill thiệt mạng trong một chuyến bay huấn luyện trên chiếc phi cơ vận tải C-123.
Ngày 3/2/1962
Một máy phun hoá chất Buffalo Turbine và chất diệt cỏ đã được Khu 31 Chiến thuật tới nhận lãnh tại Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến để đem về thực hiện công tác 20P trên ngọn đổi Biên Hoà, khu rừng Tân Phong.
Ngày 8/2/1962
Phòng 3/TTM giao cho BTL Hành quân các phóng ảnh thuộc QL.20, QL.13, QL.14, Biệt khu Hải Yến (Tiểu khu An Xuyên tức tỉnh Cà Mau), Thành Tuy Hạ, Căn cứ 2 Biên Hòa (Rừng Tân Phong).
Đại diện UB.202 hội thảo với đại diện BTL Hành quân về 6 mục tiêu: QL.l, QL.14, Biệt khu Hải Yến, Thành Tuy Hạ, CC2 Biên Hòa, Phi trường Nhân Cơ (Tiểu khu Quảng Đức tức tỉnh Đắc Nông).
Ngày 10/2/1962
Tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên bố rằng: “Mỹ cùng với chính quyền của y đã xây dựng một chương trình thử nghiệm các chất độc hóa học dùng trong chiến tranh Việt Nam, dự định sử dụng chất diệt cây để lập các “vành đai trắng không người - no man’s land” dọc biên giới Việt- Lào, Việt - Miên, dọc các đường chiến lược từ Sài Gòn đi Vũng Tàu, chiến khu D.
Ngày 10/2/1962
Phản ứng của báo chí thế giới
Từ ngày hạ cánh xuống Việt Nam vào tháng Giêng đến giữa tháng Hai, 3 máy bay này đã tham gia vào các nhiệm vụ thí nghiệm khai quang. Đúng như dự đoán, phản ứng của báo chí của các nước Cộng sản trên khắp thế giới và của Việt Nam dân chủ cộng hòa nói riêng đã xuất hiện ngay lập tức và mạnh mẽ. Sau một loạt các phi vụ đầu tiên, hoạt động đã chững lại để đánh giá. Sở chỉ huy MACV và chính phủ Việt Nam Cộng hoà nói chung rất hài lòng, song những kết quả đã ghi nhận rằng các mục tiêu đã được phun rải chưa phải là những mục tiêu tiêu biểu cho tất cả các loại cây cỏ trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 10 tháng 2, Bộ Tham mưu liên quân Mỹ (JGS) đã xem xét “chặt chẽ” toàn bộ hoạt động và yêu cầu Tư lệnh Thái Bình Dương phải cung cấp báo cáo chi tiết. Nhiều cuộc thí nghiệm lại được tiếp tục cho đến tháng 3 có sự tham gia của Không quân Nam Việt Nam bằng một máy bay C.47 và nhiều trực thăng H.34. Không chỉ tiến hành thí nghiệm với nhiều loại cây cỏ mà còn thí nghiệm cả các chiến thuật phun rải, các thủ tục bơm hoá chất lên máy bay, trang thiết bị và xác lập thủ tục chọn mục tiêu, phê chuẩn phi vụ phun rải. Trong số các phi vụ đầu tiên của chiến dịch Ranch Hand, một máy bay cùng phi hành đoàn đã bị mất tích. Một trong 3 máy bay nằm chờ ở Clark được cử đến thay thế. Sau đó vào tháng 3 năm 1962, hai máy bay C.123 còn lại cũng đến Nam Việt Nam để tham gia chiến dịch Ranch Hand.
Ngày 10/2/1962
JGS yêu cầu CINPAC báo cáo hoạt động khai quang
Ngày 10/2, Bộ Tham mưu Liên quân Mỹ (JGS) đã xem xét “chặt chẽ” toàn bộ hoạt động và yêu cầu Tư lệnh Thái Bình Dương (CINCPAC) phải cung cấp báo cáo chi tiết. Nhiều cuộc thí nghiệm lại được tiếp tục cho đến tháng Ba với sự tham gia của không quân VNCH bằng một máy bay C- 47 và nhiều trực thăng H-34. Không chỉ tiến hành thí nghiệm với nhiều loại cây cối mà còn thí nghiệm cả chiến thuật phun rải, các thủ tục bơm hóa chất lên máy bay, trang thiết bị và xác lập thủ tục chọn mục tiêu, chuẩn y tuyến bay. Khi các đội bay không tham gia vào một nhiệm vụ nào, họ sẽ phải tiến hành tập các thao tác bay cơ bản và làm quen với lãnh thổ Nam Việt Nam để phát huy khả năng chuyên môn của mình.
Ngày 11/2/1962
110.000 ga lông (413.380 lít) chất Đỏ tía, có tài liệu gọi là chất Tím (Purple) và chất Xanh (Blue) được vận chuyển bằng đường biển tới Việt Nam. Đó là những thùng hoá chất khai quang dành cho chiến dịch Ranch Hand của quân đội Mỹ.
Các tài liệu chính thức sau này của Mỹ lấy năm 1962 là năm khởi đầu cho cuộc chiến tranh hoá học ở chiến trường Việt Nam. Nhưng như đã nói trên, cuộc chiến tranh hóa học này đã bắt đầu từ gần nửa năm trước đó .
Một đơn vị Không quân Hoa Kỳ - Phi đoàn 12 biệt động thuộc Không đoàn 309 được giao nhiệm vụ chuyên trách phun rải chất diệt cây. Tuy nhiên, trong thời gian đầu, Chính phủ Hoa Kỳ muốn lẩn tránh nên đã tìm mọi cách che giấu sự thật. Các máy bay của không lực Hoa Kỳ làm nhiệm vụ này được sơn cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng hoà, phi công thì nhận lệnh phải mặc thường phục khi thực hiện các phi vụ khai quang . Chính phủ Hoa Kỳ muốn chính quyền Ngô Đình Diệm ra tuyên bố là các chất này không gây tác hại gì cho sức khỏe con người.
Không có tài liệu nào giải thích ý nghĩa của hai chữ Ranch Hand là gì. Các nhân viên quân sự tham gia chiến dịch được mang một huy hiệu hình tròn chung quanh ghi chữ Ranch Hand, giữa có một chữ tiếng Hán - chữ Tử - nghĩa là Tím, màu của tác nhân Đỏ tía (Purple) mật danh của hỗn hợp chất diệt cỏ mà thành phần của nó gồm: 50% n- butyleste của 2,4-D; 30% n - butyleste của 2,4,5 - T và 20% n - isobutyleste của 2,4,5 - T. L
Không chỉ tiến hành thí nghiệm với nhiều loại cây cỏ mà còn thực nghiệm chiến thuật phun rải, trình tự các bước bơm hoá chất lên máy bay, trang thiết bị và xác lập thủ tục chọn mục tiêu, chuẩn y tuyến bay.
Tháng 2/1962
Từ ngày hạ cánh xuống Việt Nam vào tháng Giêng đến giữa tháng 2/1962, ba máy bay C-123 đầu tiên đã tham gia vào các nhiệm vụ thí nghiệm khai quang đặc biệt dọc theo các tuyến giao thông liên lạc. Sau một loạt các phi vụ đầu tiên, hoạt động đã chững lại để đánh giá hiệu quả. Sở chỉ huy MAAGV và Chính phủ VNCH nói chung rất hài lòng, song những kết quả đã ghi nhận rằng các mục tiêu bị phun rải chưa phải là những mục tiêu tiêu biểu cho tất cả các loại cây trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam.
Lịch sử cho thấy rõ là Chương trình phun rải hóa chất và huỷ diệt mùa màng chủ yếu nhằm buộc nông dân phải rời bỏ chỗ ở của họ tới những vùng mà người ta có thể kiểm soát họ được, ý kiến làm cho có những người chạy khỏi vùng Mặt trận Dân tộc Giải phóng bằng cách hủy diệt mùa màng và làm trụi lá đã được chấp nhận ngay từ đầu cuộc chiến tranh. Một sĩ quan tình báo Mỹ báo cáo về kết quả của các phi vụ phun rải hóa chất tháng 2 nãm 1962 trên một số vùng dân cư địa phương thuộc đồng bằng sông Cửu Long “Trong thời gian từ tháng ỉ đến tháng 5 năm 1963, một nhóm 112 người đã ra “hàng” Chính quyền Sài Gòn tại tỉnh An Xuyên. Mặc dù lúc đầu họ bị coi là Cộng sản, sau đó chính quyền chỉ coi có 9 người là du kích của MTDTGP. Nhóm người này do sợ hãi hậu quả của các phi vụ Ranch Hand đã ra hàng”.
Ngày 6/3/1962
Thành lập Ban Tham mưu hóa học và Toán Hóa học Sư đoàn
Phòng Nhất (Một)/Bộ TTM/Quân lực VNCH ban hành quyết định thành lập Ban Tham mưu hoá học và các toán hóa học yểm trợ tác chiến tại các Sư đoàn. Ban Tham mưu hoá học trực thuộc Phòng Ba/TTM, còn các toán hóa học, cả thảy có 9 toán, đồn trú bên cạnh Bộ Tư lệnh Sư đoàn.
Ngày 6/3/1962
Huấn thị căn bản điều hành công tác 202/Quân lực VNCH
Yếu tố địa thế rậm rạp, hiểm trở đã tạo được thuận tiện cho đối phương tăng cường mãi những hành động khủng bố dã man đối với dân lành và tấn công phục kích quân ta. Địa thế rậm rạp cũng đã gây cho chúng thành những đoàn quân ma, có đấy rồi lại mất đấy, khiến lực lượng võ trang của ta luôn luôn bị đặt trong tình thể bị động, khó mà biết được vị trí căn cứ của chúng để mở các cuộc tấn công vào tận sào huyệt. Trong cuộc chiến tranh du kích, nếu không phá vỡ được các cơ sở của đối phương, không biết được đường rút lui của địch khi chúng đánh ta thì phần thắng lợi rất lỏng lẻo nếu không nói là thất bại.
Kinh nghiệm chiến trường và binh pháp cũng dạy cho ta thấy địa thế là một trong những yếu tố cơ bản để chiến thắng. Bên nào biết lợi dụng địa thế thì bên đó thắng. Chiến thuật của Cộng sản là thứ chiến thuật du kích cơ hữu. Muốn chiến thắng đội quân ma đó cần phải phơi chúng ra ánh sáng, không cho chúng có những sào huyệt bất khả xâm phạm, chặn hết mọi đường vận chuyển của chúng, làm sao nhất cử nhất động của chúng đều được ghi nhận và phản ứng mau lẹ. Cần phải có một biện pháp cấp bách đối đầu và chặn đứng những hành động phá hoại của đối phương trong giai đoạn hiện tại. Tương lai hứa hẹn nhiều triển vọng nếu ta lập được những hành lang trống địa để chia cắt những vùng rừng rậm vẫn được coi như là bất khả xâm phạm mà Việt cộng thừng dùng làm chiến khu, mật khu, thành những tuyến quân sự hoặc xạ trường tự do; lực lượng của đối phương sẽ bị giảm xuống và bị tiêu diệt dần một khi ta kiểm soát được hữu hiệu biên giới và giới tuyến. Các cuộc tấn công hay phục kích của địch sẽ giảm dần đến mức tối thiểu hay ít hiệu quả khi các giao thông lộ đã được khai quang cũng như khi nền kinh tế địch hoàn toàn bị triệt phá.
Thiếu yếu tố bất ngờ, mất những cơ sở dinh dưỡng, địch sẽ chỉ còn là những con yêu tinh đã hiện nguyên hình mất hết các phép thần thông, không còn đáng sợ nữa và sẽ dần dần bị tiêu diệt đến tên cuối cùng.
Kế hoạch 202 nhằm mục tiêu:
Khai quang các trục quốc lộ;
Khai quang các chiến khu, mật khu của Việt cộng;
Khai quang vùng rùng núi rậm rạp mà Việt cộng thường ẩn nấp qua lại;
Mở các hành lang trống địa dọc theo biên giới và giới tuyến;
Khai quang quanh các yếu khu, yếu điểm quân sự;
Phá huỷ các ruộng rẫy hoa màu, các cơ sở kinh tế của Việt cộng.
1/ Khai quang các quốc lộ nhằm mục đích triệt hạ những khu vực rừng hoang cây cối rậm rạp sát dọc theo các quốc lộ thuận tiện cho Việt cộng ẩn nấp để phục kích quân ta di chuyến trên các quốc lộ này.
- Quốc lộ 15 Biên Hoà- Vũng Tàu.
- Quốc lộ 1 Biên Hoà - Phan Thiết.
- Quốc lộ 20 Biên Hoà - Đà Lạt.
- Quốc lộ 14 Biên Hoà - Ban Mê Thuật
Các trục lộ khác sẽ lần lượt thực hiện sau.
Yếu khu, yểu điểm quân sự là những khu vực quan trọng về mặt an ninh quốc phòng như các sân bay quân sự, quân cảng, kho liên hợp vũ khí - khí tài, nhiên liệu, trận địa hỏa lực pháo mặt đất, phòng không, tên lửa, các đài viễn liên (ICS).
Chiến khu D, đông bắc Sài Gòn, nằm trong giới hạn toàn tỉnh Phước Thành, một phần tỉnh Long Khánh (bắc) và một phần tỉnh Phước Long. Diện tích 4.000 km2
Chiến khu Dương Minh Châu (DMC), bắc Tây Ninh, vùng phía tây sông Vàm Cỏ Đông, giới hạn 1/2 phía bắc tỉnh Tây Ninh (bắc và tây giáp Campuchia). Diện tích 2.500 km2.
Mật khu Đỗ Xá dọc liên ranh 2 tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi.
Mật khu 22, bắc Phan Rang 23 km, diện tích 30 km2.
Mật khu U Minh Thượng, 40 km nam Rạch Giá, diện tích 25 km2.
Mật khu U Minh Hạ, 30 km tây Cà Mau, diện tích 30 km2.
Phi trường Nhân Cơ trên lãnh thổ tình Quảng Đức (Đắc Nông).
Hành lang trống địa (hành lang trắng): Vùng cây cối bị triệt hạ hoàn toàn, rộng từ 3-5 km (vùng rừng núi), 1 km (vùng có trục lộ giao thông chạy dài theo biên giới Việt- Miên- Lào; giới hạn phía tây hành lang cách biên giới 5-20 km, không liên tục (gặp núi non hiểm trở, máy bay khó qua và người không thể vượt qua. Một trong những hành lang trống địa (loại 2) trải dọc theo nam khu Phi quân sự từ Cửa Việt đên gần biên giới Việt - Lào.
2/ Khai quang các chiến khu, mật khu Việt cộng. Để bảo toàn lực lượng, Việt cộng thường chọn những vùng rừng núi rậm rạp, đường giao thông yếu kém, dân cư thưa thớt để làm chiến khu. Cây cối rậm rạp đã giúp cho chúng tránh được sự quan sát và oanh kích của không quân, một trong những khả năng chiến thuật của ta mà chúng rất sợ.
Để làm giảm hẳn yếu tố che chở này, cây rừng chiến khu Việt cộng cần được cắt xẻ bằng các hành lang trống địa chạy ngang các trục giao liên của chúng. Các hành lang này sẽ giúp cho phi cơ quan sát và khu trục của ta dễ dàng tìm kiếm và tiêu diệt chúng. Ngoài ra, các hành lang này cũng giúp cho các cuộc hành quân tảo thanh của ta được dễ dàng và an ninh hơn.
Các chiến khu quan trọng của Việt Cộng: Chiến khu D, Dương Minh Châu, Mật khu Đỗ Xá, Mật khu 22, Mật khu Chư Dléya, Mật khu Tô Hạp, Mật khu Đồng Tháp và Mật khu U Minh.
Tổng số có tới trên 50 Mật khu Việt cộng đã được xác nhận. Ngoài ra còn có những vùng không hẳn là mật khu trú đóng của Việt cộng, nhưng là những vùng bản lề mà chúng thường đặt các trạm giao liên để tiện sự thông thương trong xứ; hoặc là các vùng bàn đạp để tập trung lực lượng trước khi xuất phát tấn công ta. Đó là rừng An Sơn, rừng Rau Răm.
3/ Hành lang trống địa dọc biên giới và giới tuyến Việt Nam Cộng hòa phân chia với Hạ Lào và Cao Miên bằng một biên giới dài trên 1.500 km và phân cách với Bắc Việt bằng một vùng giới tuyến dài hơn 70 km.
Vì phần lớn đường biên giới Việt - Miên - Lào chạy qua các vùng rừng núi rậm rạp, núi non hiểm trở thêm vào tình hình quân sự gần đây tại Hạ Lào cùng với chính sách trung lập của Cao Miên, tất cả đã gây cho Việt Cộng có nhiều điều kiện thuận lợi để xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.
Để ngăn chặn hiệu quả sự xâm nhập đồng thời cắt đứt đường liên lạc của các lực lượng đã nhập nội và nhất là đế đề phòng các cuộc công khai xâm lăng của Khối Cộng vào Việt Nam Cộng hòa, cần thực hiện một hành lang trống địa dọc biên giới Việt - Miên - Lào và vùng giới tuyến.
Hành lang này gồm có những bãi mìn liên tiếp thiết lập trong vùng quang đãng (dùng hoá chất để tiêu diệt cây cỏ) và được bảo vệ hữu hiệu bằng một số đồn biên giới có trang bị đầy đủ vũ khí và trang cụ tối tân thích nghi với nhiệm vụ này.
Giai đoạn đầu trong việc thiết lập hành lang trống địa này là công tác sử dụng hoá chất để tiêu diệt cây cỏ rồi đốt để khai quang sau khi cây cối đã chết khô.
Hiện nay, TTTN&PTKNTC đang nghiên cứu thực hiện với tính cách trắc nghiệm một hành lang bảo vệ biên giới Việt Nam thuộc Tiểu khu Tây Ninh hướng sang Cao Miên.
4/ Khai quang các yếu khu, yếu điểm.
Hiện nay, một số lớn các yếu khu, yếu điểm quân sự được thiết lập tại các vùng cây cối rậm rạp, núi rừng hiểm trở. Ngoài ra, các bãi đất trống dành cho xạ trường bao quanh các vị trí cần phải thường xuyên dọn cỏ, ủi quang và là một công tác nặng nề cho đơn vị trú đóng, nhất là trường hợp các bãi mìn cũ xưa (do người Pháp thiết lập vì không còn tài liệu gì để lại) bị cỏ mọc lấp đầy, khiến cho tầm quan sát của vị trí bị án ngữ.
Sử dụng hoá chất để khai quang các vùng này là một giải pháp mau chóng và hữu hiệu nhất giúp cho các yếu khu, yếu điểm này dễ dàng trong sự tuần tiễu phòng thủ vị trí.
Các yếu khu, yếu điểm này gồm có các đồn bốt, sở chỉ huy, doanh trại đơn vị, kho tàng, đài truyền tin, căn cứ không quân,...Các vị trí cần được khai quang: Căn cứ 2 Không quân Biên Hoà, Kho đạn Thành Tuy Hạ, Các đồn dọc biên giới, Phi trường Nhân cơ (Quảng Đức, nay là Đắc Nông).
5/ Tiêu diệt ruộng rẫy Việt Cộng.
Để bớt gánh nặng tiếp tế từ Bắc vào, các đơn vị Việt cộng lén lút hoạt động tại Nam phần đều cố gắng phát triển các cơ sở kinh tế ngay tại các địa phương chúng ẩn náu nhất là vấn đề khai phá trồng trọt ngũ cốc để tự cung tự cấp thực phẩm. Công tác dùng hoá chất để tiêu diệt ruộng rẫy đi kèm với công tác bao vây kinh tế dịch là một đòn rất mãnh liệt để tiêu diệt khả năng bành trướng của Việt Cộng.
Hiện nay, đa số ruộng rẫy của Việt Cộng đã được xác nhận đều ở tại vùng cao nguyên Trung phần. Điều thiết yếu là cần phun rải hoá chất vào đúng thời gian sắp gặt hái của chúng. /Nguồn: Hồ sơ lưu Bộ TTM/QLVNCH/.
Ngày 9/3/1961
Bộ Ngoại giao Mỹ: Chất diệt cỏ không độc
Theo Bộ Ngoại giao Mỹ (9/3/1965) các chất diệt cỏ không độc, đặc biệt là khi những người dân “vô tội” đã được cảnh báo trước khi phun rải chất khai quang. Họ được khuyên là rời địa bàn và được khuyến khích là sẽ được cung cấp thực phẩm đầy đủ nếu như tập hợp lại với nhau và sống trong những làng tỵ nạn (NYT 21/12/1965). Ai cũng có thể băn khoăn liệu thường dân vô tội có được cảnh báo đầy đủ trước khi phun chất khai quang tại những vùng không có điện thoại, báo chí, hoặc đài truyền hình và kể cả nếu như cảnh báo được đến họ thì liệu những người nông dân sống dựa vào mảnh đất của họ có thể rời bỏ nó không.
Hơn nữa các chất hóa học đổ xuống tại Việt Nam thì hoàn toàn không phải là vô hại. Chỉ cần đọc qua hướng dẫn sử dụng các chất diệt cỏ do công ty hóa chat Dow cũng đủ để thuyết phục. Các nhà cung cấp hóa chất cảnh báo những người sử dụng ester 2,4,5-T:
Kể cả một lượng nhỏ 2,4,5-T cũng có thể gây tổn thương mạnh cho cây cối cần bảo vệ kể cả trong giai đoạn ngủ đông hay trong giai đoạn đang phát triển;
Cẩn thận tránh hóa chất ảnh hưởng tới nước uống hoặc các kênh thủy lợi;
Cần để ngoài tầm với của trẻ em... chất này có thể kích thích da và mắt.
Khi được biết chất Xanh (Blue) chứa thạch tín (asen) được dùng để hủy diệt cỏ voi và lúa thì đây là bằng chứng có rủi ro nhiễm độc nghiêm trọng.
Năm 1953, Văn phòng Quân đội chuyển cho Bộ Nông nghiệp và Hải sản một bản tóm tắt dư lượng chất diệt cỏ còn dính lại trên cây, nồng độ 2,4-D là khá cao trong rơm, đặc biệt là ngô và kê. Và khi rơm, rạ cho trâu bò ăn thì vẫn có độ rủi ro là có chất 2,4-D trong sữa.
Ngày 12/3/1962
Đánh giá bi quan về hoạt động khai quang
Chuẩn tướng Lục quân F.J. Delmore phụ trách Nhóm đánh giá Chương trình khai quang của BQP Hoa Kỳ đã trả lời các câu hỏi của Bộ Tham mưu liên quân (JGS) với những đánh giá bi quan về khả năng sử dụng các chất khai quang tại Nam Việt Nam. Ông ta đã báo cáo rằng chỉ có 20-25% lá cây xung quanh Biên Hoà bị lìa cành và rằng những nỗ lực đốt cháy lá đã thất bại. Ông kết luận “lợi ích về mặt tác chiến của hoạt động khai quang là rất nhỏ nhoi.
Do vậy, cũng như căn cứ vào các báo cáo đánh giá bi quan khác, chương trình khai quang đã bị xem là “không có hiệu quả đáng kể”. Mặc dù các thành viên MAAGV không đồng tình với những báo cáo này và còn muốn có một chương trình được tăng cường mạnh mẽ hơn, song họ đã nhận được lệnh phải cắt giảm biên chế của Ranch Hand xuống còn 2 máy bay C-123 với số nhân viên hỗ trợ tối thiểu. /Eldon Downs, Project Corona Harvest/.
Ngày 14/3/1962
Thành lập Ban và Toán Hóa học
V/v tổ chức Ban Hóa học tại P3/TTM/QLVNCH và các Toán Hóa học tại các Sư đoàn bộ binh.
1 - Bộ Tổng Tham mưu đã đồng ý với MAAG về việc tổ chức tại P3/TTM một Ban Hóa học gồm 4 nhân viên, và tại mỗi sư đoàn bộ binh một Toán hóa học 11 người, tổng số 103 người, thay vì lập 3 đại đội hóa học và 1 Ban Hóa học tại Nha Quân cụ như đã dự trù trong kế hoạch 30.000 người năm 1962 trước đây.
2 - Tới ngày 1/5/1962, các cố vấn của các Tóan Hóa học sư đoàn và các Toán huấn luyện cơ động (Mobile Training Teams) về Ngành Hóa học quân đội Hoa Kỳ sẽ tới Việt Nam đế huấn luyện tại chỗ cho các đơn vị hóa học quân đội VNCH trong một thời gian 60 ngày.
Vì vậy, Bộ TTM sẽ ban hành gấp các văn kiện cần thiết về việc thành lập các đơn vị nêu trên. Trong khi chờ đợi, yêu cầu Nha Quân cụ liên lạc ngay với thiếu tá Tomberg - cố vấn hóa học tại Ban Quân cụ (Logistics Division, MAAG) để soạn thảo đề nghị gấp Bảng cấp số (Biểu biên chế) cho Ban Tham mưu hóa học P3/TTM và các Toán Hóa học Sư đoàn, đồng thời chuẩn bị cung ứng số nhân viên cần thiết để điều hành các đơn vị trên trước ngày 15/4/1962.
Ngày 1/4/1962
Thành lập Khối Hóa học
Ngành (Khối) Hoá học quân sự QLVNCH thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1962: gồm 01 Ban Hoá học thuộc Phòng Ba/Bộ TTM và 9 Toán hoá học tại 9 sư đoàn bộ binh. Khi chương trình khai quang phá huỷ hoa màu bằng hoá chất diệt cỏ được mở rộng đã thành lập thêm Ban điều hành 202/Bộ TTM; Các tiểu ban điều hành 202/Quân đoàn và Tiểu đội 202/Sư đoàn. Mở lớp đào tạo huấn luyện viên hoá học trong vòng 3 tuần lễ với sự hợp tác của các cố vấn hoá học quân sự Mỹ.
Ngày 7/4/1962
Hội Luật gia Dân chủ thế giới lên tiếng phản đối
Ban Thư ký Hội Luật gia dân chủ thế giới nhóm họp tại Praha, Tiệp Khắc ra tuyên bố vạch rõ: Việc sử dụng các chất hoá học để diệt cây cỏ và mùa màng ở Việt Nam là “trái với tất cả quy tắc sơ đẳng của nhân đạo và nguyên tắc luật pháp quốc tế”.
Trong một bài báo đăng trên Tạp chí Tiến bộ (La Revue Progressiste), nhà ngoại giao Mỹ Edmun Tchabb xác nhận rằng, các lực lượng vũ trang Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã sử dụng các chất độc hoá học diệt cỏ và phá hoại mùa màng làm cho du kích vừa không có nơi trú ẩn và thiếu nguồn thức ăn.
Tháng 4/1962
Một nhóm đánh giá của quân đội Hoa Kỳ về tác động của các chất khai quang kết luận rằng các hoạt động khai quang có hiệu quả trong việc cải thiện khả năng hiển thị như là một trợ giúp trong việc quan sát từ trên không và dưới mặt đất các tuyến đường di chuyển của đối phương và làm giảm cơ hội phục kích của VC. Tuy nhiên, Nhóm nghiên cứu khuyến cáo cần tăng liều lượng chất khai quang lên gấp đôi, từ 1,5 gall, lên 3 gall.
Sau khi hoàn thành đánh giá này, Đại sứ Hoa Kỳ và Tư lệnh BTL Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) được trao quyền phê duyệt các hoạt động khai quang rụng lá (20T) dọc theo các con đường sắt, đường bộ, đường thủy và đường tải điện, các khu vực lân cận các kho, cảng hàng không, sân bay dã chiên... /Operation Trail Dust 1961-1963/
Ngày 1/5/1962
Huấn luyện Hóa học
Bắt đầu từ 1/5, các cố vấn hoá học sư đoàn và Toán huấn luyện lưu động về Ngành hoá học của quân đội Hoa Kỳ tới Việt Nam để huấn luyện cho Ban Tham mưu hoá học/TTM/QLVNCH và các Toán hoá học mới thành lập tại Trường quân cụ trong thời gian 60 ngày. Việc huấn luyện sẽ hoàn tất vào ngày 11/7/1962.
Ban tham mưu hoá học và 9 Toán hoá học thành lập để trắc nghiệm từ 1/4/1962 do Nha Quân cụ cung cấp nhân viên. Riêng sĩ quan và hạ sĩ quan do SĐBB cung cấp. Mỗi Toán có 1 cố vấn Hoa Kỳ hướng dẫn và tập trung tất cả tại Trường Quân cụ để chờ thụ huấn.
Tháng 8/1962
Vào tháng Tám 1962, sau khi hoàn chỉnh hệ thống phun MC-1 để có thể phun với liều lượng 1,5 ga-lông trên một mẫu Anh, yêu cầu khai quang đã được phê duyệt cho các kênh rạch ở sáu khu vực của bán đảo Cà Mau. Các khu vực này đã dược phun rải và cung cấp các dữ liệu thử nghiệm bổ sung cho giai đoạn 3 từ 3/9/1962 đến 11/10/1962.
Ngày 10/7/1962
Máy bay Mỹ liên tiếp phun rải chất độc hoá học xuống các xã Tân An, Tân Hoà, Phước Tân, dọc quốc lộ 15 thuộc huyện Long Thành làm cho hoa màu bị khô héo, 51 con trâu bị chết.
Ngày 25/7/1962
Nha Quân cụ, Bộ TTM/QLVNCH cử 2 quân nhân đi Mỹ theo học lớp đào tạo sĩ quan Hoá học, Sinh học và Phóng xạ (Allied Chemical Officer Orientation and Chemical, Biological and Radiological officer), thời gian 18 tháng.
Ngày 27/7/1962
Bộ TTM/QLVNCH ban hành Bảng cấp số Toán Hoá học
a. Toán Hoá học sư đoàn bộ binh:
Nhiệm vụ Toán Hoá học: Yểm trợ các đơn vị chiến đấu sư đoàn về vấn đề liên quan tới phương tiện hoá học và vi trùng học (sinh học). Toán hoá học trực thuộc BTL sư đoàn BB về chỉ huy và sử dựng; trực thuộc Bộ TTM/P3 (Ban tham mưu hoá học) về kỹ thuật.
Mỗi Toán hoá học có thể yểm trợ huấn luyện về cách:
- Sử dụng dụng cụ: hộp khói và các loại đạn hoá học, súng phun lửa;
- Chuẩn bị thực hiện các chướng ngại lửa bằng các phương tiện thích nghi ngoài chiến trường và bãi mìn;
- Sử dụng mặt nạ phòng hơi độc và các dụng cụ phòng vệ tác nhân khác; tẩy uế dụng cụ....
Biên chế: Mỗi Toán hoá học có Toán trưởng, sĩ quan điều hành kiêm phụ tá, 1 hạ sĩ quan hoá học và 8 chuyên viên sử dụng dụng cụ hoá học (hạ sĩ quan kiêm hiệu thính viên, 2 binh sĩ kiêm lái xe)
Mỗi Toán hoá học Sư đoàn Bộ binh được trang bị:
- 8 súng phun lửa M2 AI và một lô phụ tùng dự trữ;
- 1 máy nén khí còn gọi là máy ép hơi CFM - Ml AT dùng để nạp chất cháy;
- 4 máy Mity Mite, dùng để phun chất diệt cỏ thể lỏng hoặc chất độc kích thích CS dạng bột mịn vào hầm trú ẩn, địa đạo VC;
- 40 chiếc mặt nạ phòng độc - M9A1;
- 15 bao tiêu độc cá nhân - M5A1;
- 1 máy dò độc-MI8;
- 1 bộ dụng cụ tiêu tẩy (tiêu độc và tẩy xạ) - M2;
- 01 máy vô tuyến điện AN/VQR.2;
- 01 máy vụ tuyến điện AN/PRC-10
b. Toán Hoá học Tiểu khu:
Nhiệm vụ tương tự như Toán Hoá học sư đoàn.
Tổ chức: 1 sĩ quan - Trưởng Toán;
4 hạ sĩ quan - chuyên viên hoá học;
6 binh sĩ - chuyên viên hoá học.
Ngày 28/7/1962
Đánh giá hiệu quả công tác 2R-phá hoại mùa màng.
Giác thư của Giám đốc Cục Tình báo và Nghiên cứu Hilsman gửi Trợ lý Ngoại trưởng Viễn Đông Harriman. Kèm theo là một nghiên cứu các đề xuất của sứ quán Sài Gòn và MACV cho phá hủy cây trồng (phá huỷ mùa màng, công tác 2R) tại Việt Nam, mà chúng tôi đã chuẩn bị theo lời thỉnh cầu của ông Rice mô tả ngắn gọn về lý luận và kết luận có trong nghiên cứu cơ bản sau: Phá hủy cây trồng chắc chắn sẽ có ảnh hưởng chính trị. Tình báo đủ tin cậy để đảm bảo rằng các loại cây trồng bị phá hủy là những khu vực được kiểm soát hoàn toàn bởi Việt Cộng. Một số người vô tội, nhất là nông dân sẽ bị tổn thương và Việt Cộng sẽ tận dụng tối đa điều này trong công tác tuyên truyền và tuyển dụng của họ. Dư luận thế giới chắc chắn sẽ phản ứng lớn hơn đối với chương trình phá hủy cây trồng hơn là làm rụng lá.
Thực phẩm ở miền Nam Việt Nam là phong phú, và chương trình phá hủy cây trồng sẽ không có khả năng đủ hiệu quả để gây ra nạn đói cho Việt Cộng, nhưng hai mục tiêu chiến lược dường như có thể. Thứ nhất, một chương trình có hiệu quả có thể có thể cắt giảm nguồn cung cấp thực phẩm đủ để ngăn chặn Việt Cộng dự trữ, do đó làm cho Việt Cộng khó khăn trong việc tập trung lực lượng và duy trì chúng trong chiến đấu. Thứ hai, một chương trình hiệu quả sẽ buộc Việt Cộng để dành một tỷ lệ thời gian ngày càng tăng của họ vào việc mua và vận chuyển thực phẩm, hơn là chiến đấu. Có vẻ như rõ ràng, tuy nhiên, kết quả như vậy có thể đạt được chỉ ở giai đoạn sau trong chiến dịch chống du kích, sau khi Việt Cộng đã được phân lập từ những người nông dân và hướng vào khu vực được xác định tập trung, (ấp chiến lược) Để có hiệu quả, chương trình sẽ phải được mở rộng, nhưng liệu chính phủ có thể thực hiện một chương trình rộng lớn trong khi Việt Cộng được phát tán rộng rãi như họ hiện nay. Một chương trình không hiệu quả sẽ chỉ buộc Việt Cộng tăng cường nỗ lực của họ để xâm nhập hay phá ấp chiên lược và các chương trình ấp chiến lược ở trạng thái non trẻ hiện nay vẫn rất dễ bị tổn thương.
Ngày 8/8/1962
PHIẾU TRÌNH
Bộ trưởng Quốc Mc.Narnara trình Tổng thống Hoa Kỳ
Chủ đề: Phá hủy hoa màu (crop destruction) tại VNCH
Phiếu trình này đề nghị Hoa Kỳ hỗ trợ một Chương trình thí điểm cho các hoạt động phá hủy hoa màu chống Việt Cộng. Các hoạt động trực tiếp của chính nó sẽ được thực hiện bởi người của Chính phủ VNCH, với việc sử dụng máy bay trực thăng riêng của họ. Tổng thống Diệm đã liên tục ủng hộ việc sử dụng chất diệt cỏ, đặc biệt là để tiêu hủy mùa màng. Đại sứ Notting đã nêu tại Hội nghị Honolulu vào tháng 7/1962 rằng... trên cơ sở đánh giá một cách toàn diện, tôi hài lòng nhận thấy rằng, phá hủy hoa màu ngay cả trong phạm vi của một tỉnh, cũng có thể tạo ra một lợi thế quân sự đáng kể.
Đại sứ Nolting và Tướng Harkins đã đề nghị và Đô đốc Felt cũng đồng ý, trong một đề nghị để cho người Việt Nam tiến hành chương trình thử nghiệm phá hủy hoa màu bằng hóa chất trong vùng do Việt Cộng kiểm soát với 8 mục tiêu tổng cộng 2.500 mẫu Anh (acre = 0,4 ha) ở tỉnh Phú Yên. Chương trình thử nghiệm này sẽ được phối hợp chặt chẽ với Chương trình bình định nông thôn “Hải Yến II”- tổ chức và thực hiện tái định cư ở Phú Yên. Tin tức tình báo chính trị - quân sự cho biết, Việt Cộng hiện diện đáng kể trong khu vực mục tiêu. Ngăn chặn cung cấp thực phẩm sẽ hỗ trợ cho việc buộc Việt Cộng phải ra khỏi các khu vực mục tiêu.
Trên cơ sở của các cuộc họp rộng rãi và đánh giá các yếu tố kỹ thuật cùng sự chuẩn bị (sẵn sàng) của Chính phủ VNCH, Đại sứ Nolting và Tướng Harkins tin rằng phá hủy mùa màng bằng chất diệt cỏ và kỹ thuật hiện đại sẽ có hiệu quả. Các phương pháp của Chỉnh phủ VNCH về xác định mục tiêu dựa trên cơ sở tình báo mặt đất và trên không đưa vào hồ sơ tất cả các yếu tố cần thiết. Cơ quan tham mưu BTL VTQS Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) đóng vai trò tư vấn kỹ thuật.
Hạn chế duy nhất có thể dự đoán là trong lĩnh vực tâm lý. Các hoạt động phá hủy hoa màu sẽ trở thành đề tài để Việt Cộng và một số nước trung lập tuyên truyền, lên án Hoa Kỳ dã man. Nhưng, Đại sứ Nolting tin rằng hiệu ứng của nó sẽ là không đáng kể.
Ngày 23/8/1962
Giác thư của Bộ trưởng Ngoại giao trình Tổng thống Mỹ
Washington 23/8/1962
Chủ đề: Dự án hủy diệt mùa màng (Crop destruction)
Khoảng sáu máy bay trực thăng Mỹ mang cờ hiệu Việt hoạt động với sự hỗ trợ của Không quân Nam Việt Nam phun thuốc diệt cỏ trên 8 khu vực với tổng số 2.500 mẫu Anh (acre = 4.080 m2) như một phần của hoạt động Hải Yến II đang diễn ra tại tỉnh Phú Yên. Các khu vực này đều ở miền núi. Trên cơ sở tình báo VNCH, Đại sứ Nolting và Tư lệnh Harkins tin rằng các loại cây trồng sẽ, trừ khi bị phá hủy, nuôi dưỡng Việt Cộng địa phương. Tuy nhiên, không có bằng chứng để chứng minh rằng đất trồng lúa này chủ yếu là sử dụng cho Việt Cộng.
Công tác 2R không khả thi đối với lực lượng mặt đất vào khu vực này để phá hoại mùa màng.
Nhược điểm:
A) Mặc dù đã được giải thích bằng tiếng Việt, nhưng Việt Cộng sẽ tuyên truyền là Mỹ sử dụng máy bay và chất độc để phá hủy thực phẩm của người châu Á.
B) Cách để giành chiến thắng một cuộc chiến tranh du kích, về cơ bản là để giành trái tim và khối óc của họ. Phá hủy cây trồng đi ngược lại những quy tắc cơ bản. Chính phủ sẽ nhận được sự thù địch của những người có cây trồng bị phá hủy, hoặc sẽ phải ở lại tại chỗ và bị đói hoặc trở thành những người tị nạn vô gia cư sống với tiền trợ cấp không chắc chắn của một chính phủ yếu kém; người phi nông nghiệp, những người chỉ đơn thuần là thông cảm với họ (nông dân), cũng sẽ căm ghét chính phủ tiêu hủy cây trồng. Việc sử dụng các chất hóa học kỳ lạ, để phá hoại mùa màng, tấn công vào một cái gì đó cơ bản gắn bó với cuộc sống, hơn thế nữa các tác nhân hóa học cũng trực tiếp gây hại cho con người, động vật.
(C) Sử dụng kỹ thuật Hoa Kỳ phun thuốc từ trên không để phá hoại cây trồng (mùa màng) ở Việt Nam có thể làm gia tăng sự tuyên truyền của Cộng sản rằng Hoa Kỳ đang bắt tay vào chiến tranh hóa học ở châu Á. Điều này có thế làm phát sinh tăng chi phí sử dụng khí độc và có lẽ cả các loại vũ khí sinh học đối với dân châu Á.
Ưu điểm và cân nhắc khác:
(A) Chúng tôi đã cẩn thận hạn chế vai trò hỗ trợ của chúng tôi tại Việt Nam. Chúng ta không nên tự nguyện mất bản thân của việc sử dụng các kỹ thuật mới trừ khi chúng tôi chắc chắn người Việt Nam có thể phục Việt Cộng mà không có họ.
(B) Cách hiệu quả nhất để làm tổn thương Việt Cộng là cắt đứt nguồn cung lương thực, thực phẩm. Thức ăn khan hiếm trong thành lũy miền núi của họ và phá hủy hoa màu có thể có hiệu quả nhất.
(C) Phương pháp và khái niệm cũng không phải mới. Quân đội Anh phá hủy một số cây trồng bằng hóa chất từ trên không ở Malaysia, ở Việt Nam, cả hai bên đang phá hủy thực phẩm của nhau. Việt Nam Cộng hòa đã đốt cháy cây trồng Việt Cộng với bom napalm. Napalm gây thiệt hại cho đất trong nhiều năm, còn chất làm rụng lá thì không (?).
(D) Chính phủ Việt Nam rất lo lắng để thực hiện chương trình này và đang xem xét mua hóa chất ở Hồng Kông, Đài Loan hay Tokyo. Nếu Chính phủ VNCH thực hiện điều này, nó sẽ khó khăn hơn đối với chúng tôi để kiểm soát và phân định các hoạt động.
(E) Chúng tôi đã nghe một số luận điệu tuyên truyền của Việt Cộng cáo buộc chúng tôi phá hủy cây trồng trong kết nối với các thử nghiệm chất làm rụng lá trước đây của chúng tôi. Tuyên truyền này đã không khơi dậy những ảnh hưởng quốc tế lớn.
(F) Với kỹ thuật hiện có và hóa chất các loại cây trồng có thể bị hủy diệt.
(G) Thí nghiệm rụng lá hạn chế trước đó ở Việt Nam được báo cáo là đã có các tác dụng sau:
- Lãnh đạo Việt Cộng tỏ ra hết sức quan tâm;
- Theo ông Ngô Đình Nhu, chiến dịch khai quang rụng lá xuất hiện làm cho người Thượng thấy việc khai quang, phá hủy hoa màu là là một vũ khí mạnh mẽ, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa mạnh hơn mà họ nên tham gia; ông cũng đã khẳng định nó (phá hủy hoa màu) cũng làm cho Việt Cộng gây áp lực lên người Thượng phải bảo đảm cung cấp thực phẩm cho họ.
- Nước láng giềng Campuchia, Thái tử Sihanouk đã không tỏ ra lo ngại…
Ngày 24/8/1962
Biên bản cuộc thảo luận giữa Bộ Ngoại giao và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (Joint Chefs of Staff – JCS).
Chủ đề: Phá hoại hoa màu ở Việt Nam.
Tướng Lemnitzer (Chủ tịch TMT Liên quân cho đến 1/10/1962) nói rằng JGS đã thúc dục Tướng Harkins (Tư lệnh BTL viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam), Đại sứ Nolting và Chính phủ Nam Việt Nam đồng ý với một Chương trình phá hủy hoa màu ở phía bắc Nam Việt Nam.
Nếu muốn Chương trình này có hiệu quả nó phải được thực hiện một cách nhanh chóng trước khi lúa chín không để Việt cộng thu hoạch. Tướng Lemnitzer đề nghị ông Robert Harold Johnson cho biết ý kiến của Chính phủ về chương trình được đề xuất. Ông Johnson nói rằng, Chính phủ không đồng ý và Chính phủ đã nhận được quan điểm của Bộ trưởng Quốc phòng McNamara và JGS có hỗ trợ cho chương trình. Theo đó, với quan điểm về tầm quan trọng của vấn đề và sự khác biệt trong các quan điểm được thể hiện bởi Chính phủ và BQP, Bí thư Rusk và McNamara sẽ có quyết định từng vấn đề. Tướng Lemnitzer sau đó yêu cầu ông A. Johnson làm rõ quan điểm của Chính phủ. Ông Johnson cho biết quan điểm của Chính phủ được hàm chứa trong một bản ghi nhớ với Nhà Trắng đã được phê duyệt vào buổi chiều trước đó. /Memorandum of the Substance of Discussion at a Department of State -Joint Chiefs Staff Meeting/.
Tháng 8/1962
Tiếp tục khai quang.
Sự cần thiết khai quang dù sao vẫn còn đó, và vào tháng 8/1962, Tổng thống J.F.Kennedy đã thông qua chương trình khai quang phục vụ tác chiến nhằm phá hoại một số mục tiêu cụ thể ở Nam Việt Nam. Lúc này Chương trình đã được sự ủng hộ của Phái bộ MAAG-V và chính quyền Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn rất hài lòng với kết quả ngay từ đầu. Hai chiếc C-123 đó được điều chỉnh để tăng khả năng phun rải từ 1,5 ga-lông/acre, chiếc thứ ba lại được điều động quay trở lại Nam Việt Nam và sau khi JGS chuẩn y cho hoạt động khai quang tiếp tục, hàng loạt phi vụ đó được tiến hành dọc theo các kênh rạch /Eidon Downs, Project Corona Harves/.
Ngày 3/9/1962
Khai quang bán đảo Cà Mau
Chiến dịch làm rụng lá cây tại 6 địa điểm thuộc tỉnh Cà Mau dọc theo 5 con sông, kênh rạch và một quốc lộ, chiều dài khoảng 80 km với diện tích bị phun rải là 3.200 ha. Khai quang hai bên bờ sông, kênh rạch và đường ô tô mỗi bên 200m. Chiến dịch kéo dài từ ngày 3/9/1962 đến ngày 11/10/1962. Sử dụng máy bay C.123 để phun hỗn hợp 2,4-D và 2,4,5-T (chất da cam). Trong số 6 mục tiêu thì 5 mục tiêu là rừng đước theo dọc sông và 1 mục tiêu là rừng dừa dọc theo đường ôtô. Sau hơn hai tháng, đi quan sát bằng máy bay cho thấy có tới 95% cây cối bị chết hoặc rụng lá. /Chemical Journal Armed Forces Số 1, tháng 3/1964/.
Như vậy là việc sử dụng chất diệt cây vào mục đích quân sự ở Việt Nam nói riêng và bán đảo Đông Dương nói chung bắt đầu trên cơ sở trắc nghiệm từ cuối năm 1961, đầu năm 1962. Nó trở thành hoạt động chiến đấu thực sự từ tháng 8 năm 1962 nhằm những mục đích về nhu cầu An ninh - Quốc phòng.
a/ Về mặt chiến lược:
- Ngăn chặn, chống xâm nhập của Cộng sản (Cán binh và quân dụng) dọc theo biên giới vào lãnh thổ Việt Nam Cộng hoà (Nam Việt Nam);
- Tiêu hao tiềm năng kinh tế tự túc của Cộng sản, đặc biệt tại những vùng hẻo lánh (Đông Nam Bộ, Cao nguyên và Trung nguyên Trung phần), nơi Cộng sản tổ chức các trại trồng tỉa, chăn nuôi, và sản xuất;
- Phá vỡ các Mật khu, nơi Cộng sản tổ chức các Trung tâm dưỡng quân, kho tiếp liệu, cơ sở hậu cần… nằm sâu trong các khu vực địa thế nhiều rừng núi, cây cối rậm rạp tránh sự quan sát.
b/ Về mặt chiến thuật:
- Tăng cường an ninh các trục giao thông thuỷ - bộ chạy xuyên qua vùng rừng núi hiểm trở, có nhiều cây cối rậm rạp;
- Tạo thêm an ninh cho công tác bảo vệ căn cứ, kho tàng quân sự quan trọng;
- Trợ giúp các cuộc hành quân chiến thuật được tổ chức sâu rộng trong các khu vực rừng núi hiểm trở;
- Gây trở ngại cho địch, không cho phép chúng được tự do lợi dụng tối đa ưu điểm của địa thế rậm rạp vào các hoạt động quân sự.
Ngày 9/9/1962
Tổng kết khai quang ở Cà Mau.
Chiến dịch khai quang tại 6 địa điểm tỉnh Cà Mau bắt đầu vào tháng 9/1962. Diện tích bị phun rải là 3.200 ha, bề dài khoảng 90 km, dọc theo 5 con sông và kênh rạch và một đường quốc lộ. Khai quang hai bên bờ sông, kênh rạch và đường ô tô mỗi bên 200 m. Chiến dịch kéo dài từ 9/9/1962 đến 10/10/1962 sử dụng C-123 để phun rải hỗn hợp 2,4-D và 2.4.5-T.
Sau 2 tháng 6 ngày (9/11/1962) đi quan sát bằng máy bay những nơi bị phun rải chất khai quang, khoảng 95% cây cối bị chết rụng lá (cây đước dọc theo hai bên bờ sông; cây dừa và cây cọ dọc theo hai bên quốc lộ) /Chemical Journal Armed Forces N°1, March 1964/.
Ngày 2/10/1962
Tổng thống cho phép dùng hoá chất phá hoại mùa màng (2R).
Tổng thống cho phép dùng chất diệt cỏ chiến thuật để phá huỷ cây lương thực: lúa, ngô, khoai, sắn. Theo số liệu của quân đội Mỹ, 64.990 lít chất diệt cỏ chiến thuật đã được sử dụng trong năm 1962.
Tháng 10/1962 sử dụng chất đầu độc.
Các cố vấn Mỹ và bọn tay sai phân phối gạo tẩm chất độc cho dân chúng ngụ tại hai trại tập trung KRon và R Lung tỉnh Kon Tum để trừng trị họ đòi về làng cũ. Hậu quả có 60 người ở KRon và 20 người ở R Lung chết, nhiều người trúng độc nặng.
Ngày 6/11/1962
Nha Quân cụ, Bộ TTM cử 2 sĩ quan đi dự khóa đào tạo huấn luyện viên hoá học tại Okinawa, Nhật Bản.
Ngày 20/11/1962 - đánh bại chiến dịch Thu - Đông của Mỹ-VNCH
Tham gia chiến dịch này có nhiều cố vấn và 200 lính Mỹ lái máy bay chiến đấu, vận tải. Địch dùng máy bay lên thẳng phun rải chất độc hóa học - CS. Quân, dân chiến khu D đã anh dũng chiến đấu, bẻ gãy nhiều cuộc tiến công của địch, diệt nhiều tên, bảo vệ an toàn căn cứ và các cơ quan lãnh đạo. /PW- những sự kiện lịch sử/.
Ngày 21/11/1962
Ngay từ đầu đã có một ác cảm tự nhiên đối với việc phá hủy lương thực thực phẩm. Nhưng theo yêu cầu của Chính phủ VNCH, các phi vụ phá hủy hoa màu tại tỉnh Phước Long được tiến hành vào các ngày 21 và 23/11 với thành công đáng kể.
Ngày 24/11/1962 - về tổ chức huấn luyện hóa học cho các đơn vị trong SĐ22/BB.
Sư đoàn được bổ dụng 1 Toán Hoá học đã được các chuyên viên Hoa Kỳ huấn luyện có nhiệm vụ hướng dẫn quân nhân biết cách sử dụng hóa chất vào trận chiến và phương pháp phòng ngừa sơ đẳng chống chiến tranh hóa học, vi trùng, quang tuyến.
Quan niệm: Trong tương lai rất có thể ta gặp trường hợp phải đối phó với khí giới Hóa - Vi - Quang (Hóa học-Sinh học-Hạt nhân).
Trong quân đội VNCH hiện đang lưu dụng nhiều khí giới hóa học thông thường như: lựu đạn cay mắt, phốt pho, téc-mít, lựu đạn khói - lửa, súng phun lửa, súng chống biểu tình, khí cụ chống hơi ngạt và vi trùng (mặt nạ phòng độc), khí cụ trinh sát hóa học, khí cụ tiêu độc, tẩy uế...
Những khí giới công và thủ trên đây tất nhiên vẫn phát triển cao hơn nữa. Quân lực VNCH cần phải kiện toàn sự thành thạo sử dụng từ cấp đơn vị nhỏ đến cấp đơn vị lớn.
Mục tiêu chính của chương trình huấn luyện: Cung cấp khả năng phòng thủ - tấn công bằng hóa chất và khí cụ hóa học. Việc chế tạo hỏa cụ, sử dụng khói-lửa vào chiến trận sẽ được đặc biệt lưu ý. Biết tự cấp cứu khi có chiến tranh Hoá học-Sinh học-Hạt nhân.
Ngoài ra, nếu phải đối phó với loại chiến tranh nói trên, khám phá hay thu hồi một vùng bị nhiễm hơi độc hoặc vi trùng là nhiệm vụ của Toán Hóa học Sư đoàn.
Sau 3 đợt huấn luyện, mỗi đại đội tác chiến hay chuyên môn sẽ có một Toán gồm 1 hạ sĩ quan và 4 binh sĩ, các nhân viên này vẫn có thể vừa làm nhiệm vụ tác chiến, chuyên môn của mình vừa làm huấn luyện viên của đơn vị.
Các Sư đoàn 1, 2, 5, 7, 9, 23, 25, Nha Quân cụ, Nha Quân cảnh, Nha Bảo an - dân vệ, Trường Đại học quân sự, Võ bị quốc gia, Liên trường Võ khoa Thủ Đức, Trường sĩ quan, Trường Công binh, Trường Pháo binh, Thiết giáp, Thông binh vận (lái xe), Trung tâm huấn luyện Quang Trung, Đống Đa, Lam Sơn, Vạn Kiếp, Chi Lăng, TTHL/BĐQ Dục Mỹ, Trung Lập .... đều có hoạt động huấn luyện hoá học tương tự.
Ngày 27/11/1962
Huấn luyện hóa học quân sự.
Phòng Quân huấn/Bộ TTM/Quân lực VNCH chỉ thị cho các đơn vị: Tổng Giám đốc Bảo an, Nha Quân cụ, Trường Võ bị Quốc gia, Liên trường Võ khoa Thủ Đức, Trường Hạ sĩ quan, Pháo binh, Thiết giáp, Công binh, Thông vân binh (lái xe), Quân cụ, Quân cảnh, Trung tâm huấn luyện Quang Trung, Trung tâm huấn luyện Biệt động quân (Dục Mỹ và Trung Lập), Trung tâm huấn luyện V1CT, V2CT, Biệt khu Thủ đô về việc cử hạ sĩ quan theo học khoá đào tạo huấn luyện viên hoá học.
Cuối tháng 11/1962
Trong chiến dịch thám sát đất đai (Reconnaissance de terrain) tại vùng Chiến khu D cách Sài Gòn 50km về phía tây bắc cho thấy, tại vùng bị rải chất diệt cỏ làm cho khoảng 75 ha ruộng rẫy bị phá huỷ, ước tính số lương thực bị tổn thất có thể nuôi được 5.000 người trong vòng 3 tháng và giết chết một số lớn trâu, bò của nông dân.
Ngày 4/12/1962
Đánh giá tính khả thi các khai quang.
Năm 1962, ARPA đã cử Phái đoàn chuyên viên 5 người đến Nam Việt Nam để xem xét và đánh giá tính khả thi của việc sử dụng các phương tiện phun rải chất diệt cỏ từ trên không và dưới mặt đất vào mục đích quân sự. Phái đoàn do tướng Dclmore cầm đầu, gồm tiến sĩ Charles Minarik, tiến sĩ Shaw, Levi Burcham và Donald Whittam. Vấn đề đáng lưu tâm nhất của Phái đoàn chuyên viên hoá học là làm thế nào để gia tăng tầm nhìn trên các trục lộ giao thông và trong các khu rừng rậm để dễ dàng kiểm soát từ trên không và dưới mặt đất các đường mòn được đối phương sử dụng để chuyển quân và tiếp vận nhằm giảm thiểu các vụ đột kích của địch và khám phá nơi trú ẩn của họ. /DC.20 - 147/. /AO.9A-66/. Phái đoàn đã thẩm định 21 mục tiêu tại 11 vùng thí điểm với kết luận là việc phun rải chất khai quang từ trên không có hiệu quả 70% và phun dưới đất có hiệu quả 60% về phương diện “thấy rõ” nhìn theo chiều thẳng đứng từ trên không và nhìn theo chiều ngang dưới mặt đất. Họ cho rằng chương trình cần tiếp tục với 2,4,5 -T là chất diệt cỏ được lựa chọn. Đoàn còn khuyến cáo: nên tăng liều lượng chất diệt cỏ (từ 1,5 lên 3 gall ./acre) và hoàn thiện phương tiện phun rải (lắp thêm 2 động cơ phản lực cho phi cơ C.123; thay MC-1 bằng A/A45-1Y) Sau chuyến đi, tướng Delmore đã trực tiếp báo cáo với Bộ trưởng McNamara. /Mai Thanh Truyết, Bối cảnh lịch sử của chiến dịch RH/.
(Còn nữa)
Bình luận