Ngày 10/8/1961 - máy bay của không lực Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành phun rải chất độc, mở màn chiến dịch khai quang kéo dài suốt 10 năm (1961-1971) ở miền Nam Việt Nam. Thực tế và thời gian ngày một chứng minh rằng, đây là một cuộc chiến tranh hoá học có quy mô lớn nhất, dài ngày nhất và gây hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử loài người: 10 năm với 19.905 phi vụ, phun rải 80 triệu lít chất độc hóa học, trong đó 61% là chất da cam, chứa 366kg dioxin xuống 25.585 thôn bản (chiếm ¼ diện tích miền Nam Việt Nam). Cuộc chiến tranh phi nghĩa đó không chỉ làm cho 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm chất độc hoá học, hơn 3 triệu người là nạn nhân, mà còn gây nên biết bao thảm cảnh và hệ luỵ buồn đau xuyên thế hệ trong các gia đình cựu chiến binh, nạn nhân chất độc da cam…
Để giúp bạn đọc có điều kiện tra cứu, tìm hiểu về cuộc chiến tranh hóa học này, từ số ra tháng 5/2023, Tạp chí Da cam Việt Nam đăng tải thường kỳ nội dung cuốn sách “Chiến tranh hoá học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam (1961-1975) - Biên niên sự kiện” trong chuyên mục Thông tin khoa học.
Có thể nói, cuốn sách “Chiến tranh hoá học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam (1961-1975) - Biên niên sự kiện” là công trình tổng hợp các sự kiện về chiến tranh hoá học, giúp bạn đọc hình dung được quy mô cuộc chiến tranh hoá học này cả về không gian và thời gian, về khối lượng khổng lồ chất độc hoá học được Mỹ đem ra sử dụng cũng như hậu quả nghiêm trọng cả trước mắt và lâu dài đối với môi trường sinh thái và sức khoẻ nhiều thế hệ người Việt Nam nói riêng, Lào và Campuchia nói chung; của binh lính Mỹ và binh lính các nước đồng minh của Mỹ (Hàn Quốc, Australia, New Zealand...) tham gia cuộc chiến tranh ở Việt Nam; về vai trò của Tổng thống, Chính phủ Hoa Kỳ, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, các vị Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, quân đội Mỹ và quân đội các nước đồng minh của Mỹ, các công ty hoá chất Mỹ sản xuất và cung ứng chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides) cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.
Cùng với đó, Biên niên sự kiện đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc muốn tìm hiểu sự bất đồng quan điểm trong nội bộ Chính phủ Mỹ khi sử dụng chất diệt cỏ vào mục đích quân sự; dư luận nhân dân tiến bộ Mỹ và thế giới, trong đó có nhiều nhà khoa học Mỹ nổi tiếng lên án cuộc chiến tranh hoá học tàn bạo này ở Việt Nam. Biên niên sự kiện còn phơi bày dã tâm bưng bít, bóp méo sự thật về tính độc hại của dioxin của các công ty hoá chất Mỹ, thái độ thờ ơ, vô cảm trước những hậu quả vô cùng nặng nề mà các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đã và đang phải gánh chịu. Bạn đọc còn được cung cấp những thông tin ngắn gọn về các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến chất độc da cam/dioxin của các nhà khoa học nước ta và thế giới; về hợp tác khoa học giữa Việt Nam và Mỹ trong vấn đề tẩy độc các điểm nóng dioxin…
Trân trọng gửi đến bạn đọc!
PHẦN I: QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN
Ngược dòng lịch sử
Trong những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, kết quả nghiên cứu hoá học nông nghiệp đã cho thấy rất nhiều hóa chất tổng hợp có thể điều chỉnh hoặc hạn chế cây cỏ phát triển. Các chất này có nhiều hứa hẹn giúp nông dân diệt cỏ rất hiệu nghiệm, nhưng nhiều người cũng đánh giá cao tiềm năng sử dụng trong quân sự. Chất diệt cỏ có hiệu lực nhất được biết đến là 2,4 - dichlorophenoxy axetíc acid (2,4-D) /Peter Schtick, Ị986, Agent Orange on trial/. Mỹ đã nghiên cứu sử dụng chất diệt cỏ vào mục đích quân sự từ thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Năm 1943, Giáo sư E. J. Kraus, Chủ nhiệm khoa thực vật trường Đại học Chicago đã ký hợp đồng với quân đội Mỹ nghiên cứu tác hại của chất 2,4,5 - triehlorophenoxyaxetie axít (2,4,5-T) đối với cây lúa. Đến năm 1944, đề tài này chuyển sang Trung tâm nghiên cứu chiến tranh hoá học của quân đội Mỹ tại Fort Detrick, bang Maryland. Tại đây, người ta đã nghiên cứu trên 1.000 chất có khả năng phá huỷ cây lương thực và trên 12.000 chất có khả năng làm rụng lá, trong đó có trên 700 chất có triển vọng đem sử dụng. Cuối chiến tranh thế giới lần thứ II, Không quân Mỹ đã có kế hoạch sử dụng một số chất diệt cỏ để huỷ diệt những cánh đồng lúa rộng lớn vùng ngoại ô 6 thành phố lớn Nhật Bản: Tokyo, Locohama, Nagôia, Oxaca, Kyoto và Kobe. Song chưa kịp sử dụng thì chiến tranh đã kết thúc.
Dự án Agile của Cơ quan Nghiên cứu nâng cao thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ (The DoD’s Advanced Research Project Agency’s - ARPA) đã thành công trong việc phát triển chất diệt cỏ thành một vũ khí quân sự, một ý tưởng được gợi ý bởi những thành công của người Anh sử dụng 2,4,5-T để phá huỷ nguồn lương thực của quân nổi dậy ở Malaysia.
ARPA tài trợ cho những thử nghiệm về sự kết hợp và nồng độ của những chất diệt cỏ, những nghiên cứu dò tìm liều lượng sử dụng cho hệ thống phun rải để đạt mật độ mong muốn 28 lít/ha (3 gallons/acre), và những thử nghiệm về điều kiện tối ưu (cỡ hạt sương; tốc độ gió, tầm cao và tốc độ bay khi phun). ARPA cũng phát triển một hệ thống đánh giá tại thôn ấp để thu thập những dữ liệu điều tra nhằm ước lượng số người bị phơi nhiễm chất độc hoá học.
Những đặc điểm của chất diệt cỏ 2,4 D và 2,4,5 - T với tư cách là vũ khí đã được phát hiện trong các công trình nghiên cứu của quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới lần thứ II.
Các nhà khoa học quân đội tại các phòng thí nghiệm thuộc Edge wood Arsenal đánh giá 2,3,7,8 - tetrachlorodibenzo-p-dioxin là một tác nhân chiến tranh hoá học tiềm tàng. Vào năm 1957, họ đã nghe nói có một vụ bùng nổ bệnh chloracne trong một số nhà máy hoá chất Đức có sản xuất 2,4,5 - trichlorophenol (TCB), nguyên liệu chính được sử dụng trong sản xuất 2,4,5 - T và đã đọc một bài báo của Kimming và Schultz nhận diện được khối lượng nhỏ dioxin cũng có thể gây tổn thương nghề nghiệp cho công nhân.
Trong suốt thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, thử nghiệm sử dụng chất diệt cỏ vào mục đích quân sự được tiến hành ở Florida, California, Indiana, Kentucky, Kansas, Montana, Maryland, Băc Dakota, Utha, Rhode Island, Texas, Washington và New York. Hầu hết các cuộc thử nghiệm đều nhằm mục tiêu đối với cây trồng. Năm 1959, tại Trại Trống (Camp Drum, New York), 1.035 ha cây phong đường (sugar maples) và cây gỗ cứng khác đã bị phun trong một thử nghiệm khác để đánh giá hiệu quả của các chất khai quang rụng lá (defoliants). Đầu những năm 1969, các chất 2,4-D và 2,4,5 -T được dùng để khai quang rụng lá, còn hợp chất chứa asen (acid cacodylic) được dùng để phá hoại mùa màng.
Ngoài ra, thử nghiệm chất diệt cỏ cũng được tiến hành ở Canada, Hàn Quốc, Puecto Rico, Ấn Độ và Thái Lan.
Trong những năm đầu thập niên 60, thế kỷ XX, Chính phủ Hoa Kỳ đã tiến hành các cuộc thí nghiệm nhiều loại hoá chất diệt cỏ, trong đó có 2,4- D và 2,4,5- T nhằm xác định thành phần cụ thể để đưa vào sử dụng tại Đông Nam Á. Người đầu tiên có kiến nghị đưa 2,4,5 - T sử dụng tại Việt Nam là tiến sĩ J.W. Brown. Người thông qua kiến nghị của ông Brown là tiến sĩ Charles Minarik, Trưởng ban mùa vụ (Crop Division) tại Fort Detrick. Việc thử nghiệm các dẫn xuất của 2,4- D và 2,4,5- T (butyleste, isobutyleste và isooctyleste) được xúc tiến hết sức khẩn trương nhằm mục đích sau:
1/ Lựa chọn chất diệt cỏ (herbicides) vào mục đích quân sự, đồng nghĩa với việc lựa chọn chất diệt cây (week killer, anti-plant hay phyotoxic agents);
2/ Nghiên cứu tác hại gây ra đối với từng loại cây lương thực, cây lấy gỗ;
3/ Nghiên cứu mật độ (liều lượng) sử dụng (số galông chất diệt cỏ trên một đơn vị diện tích), thời gian rụng lá;
4/ Nghiên cứu điều kiện tối ưu: nhiệt độ, độ ẩm không khí, tốc độ gió, độ cao và tốc độ máy bay khi tiến hành phun rải chất diệt cỏ.
Năm 1959, Trung tâm nghiên cứu chiến tranh hoá học Fort Detrick tổ chức một cuộc diễn tập quy mô lớn tại Trại Trống (Fort Drum)- New York trên một diện tích 4 dặm vuông. Thành công của cuộc diễn tập nhanh chóng được Bộ Quốc phòng Mỹ ghi nhận và quyết định cho lập phương án sử dụng chất diệt cây (anti -plant) tại miền Nam Việt Nam trong khuôn khổ “Chương trình sử dụng chất diệt cỏ ở Đông Nam Á”. Tiếp sau đó, đại tá J.W. Brown , Chủ nhiệm chương trình nghiên cứu nói trên đã tiến hành 18 cuộc thực hành phun rải chất diệt cỏ tại Texas, Hawaii, Puecto Rico và Thái Lan (gần Pran Buri). Những kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, ngoài thực địa và tại chiến trường đã làm cho Tổng thống John F. Kennedy bị cuốn hút theo hướng chấp thuận khuyến nghị của các Bộ Quốc phòng và Ngoại giao - đồng soạn thảo cái gọi là Operation Hades (chiến dịch Tử thần) về sau được gọi là Operation Ranch Hand - tạm dịch là Chiến dịch “Bàn tay công nhân nông nghiệp”, hoặc “Chiến dịch Lực điền” - thực chất là Chiến dịch khai quang, phá huỷ hoa màu được ghi trong các văn thư chính thức của chính phủ Việt Nam cộng hòa (VNCH).
Năm 1960
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNCH - chính quyền Sài Gòn cũ) đã thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc rằng: Quân đội Việt Nam Cộng hoà đã sử dụng hoá chất vào mục đích khai quang làm rụng lá cây tại một số vùng rừng rậm nhiệt đới Nam Việt Nam từ năm 1960.
Ngày 7/6/1960
“Công tác diệt trừ cây cỏ”:
Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH ban hành Chỉ thị về “Công tác diệt trừ cây cỏ”. Nội dung gồm:
1/ Thể thức đề nghị nhu cầu khai quang bằng hoá chất (để phân biệt với phát quang bằng cách tỉa cành, chặt hạ cây xung quanh căn cứ hoặc ủi quang bằng máy ủi hạng nặng dọc hai bên tỉnh lộ, quốc lộ huyết mạch);
2/ Hồ sơ đề nghị khai quang phải nêu rõ lý do xin khai quang, ghi rõ toạ độ mục tiêu và phóng đồ các mục tiêu đó;
3/ Phụ bản tình báo;
4/ Phụ bản tâm lý chiến và dân sự vụ;
5/ Tờ cam kết bồi thường thiệt hại nếu có.
Thành lập Ban Phát triển khả năng tác chiến:
Cũng vào ngày này, Bộ Tổng Tham mưu/Quân lực VNCH ban hành quyết định thành lập Ban Phát triển khả năng tác chiến, sau này (30/12/1962) đổi thành Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến - TTTN/PTKNTC (The Combat Development and Test Center for Creation of New Techniques). Trung tâm có nhiệm vụ: dự toán, tiếp nhận, quản lý, cấp phát hoá chất và một vài chủng loại phương tiện phun rải chất diệt cỏ như bình phun đeo lưng (Hand sprayer); máy phun hoá chất Buffalo Turbine lắp đặt trên xe bọc thép, xe tải, xe hoả hoặc tàu thuyền; máy ủi quang hạng nặng bundoser (Plow Rome) nặng 38 tấn cho các vùng Chiến thuật (VCT), Khu chiến thuật (KCT),Tiểu khu (TK), Quân đoàn (QĐ), Sư đoàn (SĐ).
Ngày 15/8/1960
Hội nghị kế hoạch sơ bộ đã họp ngày 15/8/1960 tại Langley để bàn xin trang bị loại máy bay C.123 với sự có mặt của đại diện BTL Không quân chiến thuật (TAC), Lục quân, Hải quân và Bộ nông nghiệp Mỹ - đại uý Carl W. Marshall, sĩ quan phụ trách Biệt đội phun rải hoá chất trên không (Special Aerial Spray Flight - SASF), người sau đó chỉ huy đơn vị Ranch Hand đã chủ trì buổi họp. Đại uý kiến nghị cải tiến C.123 để có thể phun rải hoá chất diệt côn trùng (insecticides) thể lỏng hay dạng hạt. /E.R. Zumwalt, Báo cáo gửi Bộ Cựu chiến binh.
Năm 1961
Trong thập niên 1950, quân đội Mỹ đã tiến hành các vụ thử nghiệm thực địa nhằm xác định tính khả thi của việc phun rải những chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides) bằng máy bay; những cuộc thí nghiệm phun rải và hoạt động của các hệ thống phun rải trên không đã đặt nền tảng cho các hệ thống phun rải được sử dụng ở Việt Nam sau này.
Năm 1961, Cơ quan các Dự án Nghiên cứu Nâng cao (The Advanced Research Projects Agency - ARPA) của Bộ Quốc phòng Mỹ đã đánh giá tính khả thi của việc làm rụng lá rừng nhiệt đới ở Việt Nam và khuyến nghị rằng các công thức phù hợp phải là 2,4-D và 2,4,5-T cần được khai thác để sử dụng ngay. Dự án này đã có công trong việc phát triển chất diệt cỏ thành một vũ khí quân sự, một ý tưởng được gợi ý bởi những thành công của người Anh dùng 2,4,5-T phá hủy nguồn lương thực trong những cuộc nổi dậy ở Malaysia.
Năm 1961, tức là từ khi Mỹ mới bắt đầu triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” với công thức cố vấn Mỹ cộng quân đội chính quyền Sài Gòn cũ, một số cố vấn quân sự Mỹ có “sáng kiến” sử dụng chất độc hoá học làm rụng lá cây nhằm mục đích khai quang nơi tình nghi có du kích quân Việt cộng ẩn náu.
Kế hoạch 202 (khai quang, phá huỷ hoa màu đối phương) năm 1961 Ngày 8/1/1961:
Từ ngày 8 đến 25/1/1961, một nhóm nghiên cứu và phát triển, đứng đầu là William H. Godel, Phó Cục trưởng Cục các dự án nghiên cứu nâng cao Bộ Quốc phòng (Advanced Research Projects Agency) thăm Nam Việt Nam để thảo luận với các quan chức Việt Nam Cộng hòa về việc thành lập một Trung tâm nghiên cứu và phát triển hỗn hợp Việt - Mỹ. Chuyến thăm phù hợp quy định tại Điều 20 của Chương trình Tổng thống dành cho Việt Nam Cộng hoà. (Tài liệu 56) Trong một cuộc trò chuyện với Godel và McGarr vào ngày 15, Tổng thống Diệm cho biết, trong số những công nghệ quân sự mới (New Military Technologies), ông rất quan tâm đến sự phát triển của một chất làm rụng lá (defoliant) và muốn một trong những phép tăng trưởng nông nghiệp tiếp theo. (Telegram MAGCH - CS 921, ngày 16 tháng 6: Washington National Center Records, RG 330, Lansdale Files: FRC 63 A 1803).
Kết quả của chuyến thăm này là Tổng thống Diệm chỉ đạo các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa thành lập một Trung tâm Thực nghiệm & Phát triển Khả năng tác chiến được chỉ huy bởi một sĩ quan kỹ sư cao cấp, Đại tá Trạch, người đã báo cáo với ông ta (Diệm) thông qua các Tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang. Tướng McGarr đồng tình với khuyến nghị của Nhóm nghiên cứu là một tổ chức riêng biệt được thành lập trong Nhóm tư vấn hỗ trợ Quân sự, một Văn phòng nghiên cứu và phát triển bao gồm 5 người để điều hành các hoạt động chung. Nhóm nghiên cứu cũng đã phát triển một phương châm để thành lập Trung tâm được phê duyệt bởi Tổng thống Diệm và Đại sứ Nolting. Làm việc với đại diện MAAG và các cơ quan QLVNCH, Nhóm nghiên cứu Godel cũng soạn thảo một danh mục ban đầu các vấn đề và các dự án đề nghị được xem xét bởi Trung tâm. Trong một biên bản ghi nhớ ngày 12 tháng 7 gửi Lansdale, Godel báo cáo trên nền tảng và kết quả chuyến thăm của Nhóm NC&PT. Kèm theo biên bản ghi nhớ là một bản sao cho Trung tâm và danh mục các vấn đề và các dự án được đề xuất.
MAAG: Để trợ giúp quân viễn chinh Pháp chống lại Việt Minh, tháng 9 năm 1950, Tổng thống Mỹ Harry Truman đã cử một Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military Assistance Advisory Group) đến Việt Nam. Phái bộ này không thực hiện nhiệm vụ như là những quân nhân chiến đấu, mà là để giám sát việc sử dụng các trang bị quân sự viện trợ trị giá 10 triệu USD để hỗ trợ cho Pháp trong nỗ lực của họ để chống lại lực lượng Việt Minh.
Sau Hiệp định Geneva, quân Pháp rút khỏi Việt Nam. Ngày 12/2/1955, Chính phủ Mỹ quyết định các viện trợ quân sự của Mỹ sẽ chuyển trực tiếp cho Chính phủ Ngô Đình Diệm và trách nhiệm quân sự lớn sẽ được chuyển giao từ người Pháp sang cho MAAG với sự chỉ huy của Trung tướng John O’Daniel. Đến tháng 6 năm 1956, số cố vấn tại MAAG lên tới 740 người, chia làm 3 nhóm ở mỗi quốc gia: Việt – Lào – Campuchia.
Một bản báo cáo tóm tắt của Godel về cuộc viếng thăm của ông đã được gửi tới Hội thảo về Đông Nam Á tại Viện ngoại giao vào ngày 6 tháng 7 năm 1963. Godel đã thảo luận về kết quả chuyến đi của mình đến Việt Nam với Tổ công tác Việt Nam. William Godel, một chuyên gia về kỹ thuật và thực hành chiến tranh tâm lý của Bộ QP Hoa Kỳ. VNCH phản ứng với ý tưởng về một Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến với sự nhiệt tình cao: Đích thân Tổng thống Diệm đã tiến hành không ít hơn ba cuộc phỏng vấn cá nhân với Godei và bổ nhiệm Đại tá Trạch giữ chức Giám đốc Trung tâm. (Ông Trạch được đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Tổng thống). Trong sổ các khí tài quân sự mới được Godel giới thiệu có hệ thống báo động có thể cảnh báo QLVNCH ở khoảng cách 25 dặm. Thí nghiệm khác, một chất làm rụng lá để phát hiện khu vực xâm nhập biên giới. Đây là một hoạt động tốn kém và kéo dài trong ba năm với hiệu quả tối đa. Godel đã nói về các chất hocmon thực vật (2,4-D và 2,4,5-T) để loại bỏ các cây sắn nuôi sống Việt Cộng trong khi hoạt động trong các khu vực miền núi phía Bắc Nam Việt Nam . /Foreign Relation US, 1961-1963, Vol I, Vietnam - Hoạt động Đổi ngoại của Hoa Kỳ, 1961-1963.
Ngày 30/2/1961:
Thành lập Ủy ban 202.
Việc khai quang, phá hủy hoa màu do chính quyền Sài Gòn thực hiện theo chủ trương và với sự viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ thông qua Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (Military Asistance Command, Vietnam-MACV), trách nhiệm thực hiện được chính quyền Sài Gòn giao phó cho một ủy ban mệnh danh là UB-202, thành lập ngày 30/2/1961 trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu/QLVNCH do Trưởng phòng Ba (Phòng Hành quân)/TTM làm Chủ tịch.
MACV được thành lập vào ngày 8/2/1962, về danh nghĩa là cơ quan chỉ huy toàn bộ các lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam, nhưng trên thực tế, có quyền hạn chỉ huy về mặt quân sự toàn bộ các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, Việt Nam cộng hòa (VNCH) và các đồng minh tại Việt Nam; Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Phillipines, Thái Lan, Đài Loan. Chính điều này đã làm Tổng thống Ngô Đình Diệm rất khó chịu và đã tìm nhiều biện pháp để giảm sự ảnh hưởng của MACV đến quyền lực của ông. Đây cũng là một lý do dẫn đến cuộc đảo chính và cái chết của ông ta một năm sau đó.
Các đơn vị trực thuộc MACV:
1- Bộ chỉ huy Lục quân (United States Army, Vietnam - USARV),
2- Bộ Tư lệnh Hải quân (Naval Forces, Vietnam - NAVFORV).
3 - Đệ thất Không lực Hoa Kỳ (Seventh Air Force. Vietnam- 7AF)
4 - Lực lượng Thủy bộ III (III Marine Amphibious Force-III MAF).
5 - Lực lượng dã chiến số 1) I Field Force, Vietnam - I FFV),
6- Lực lượng dã chiến số 2 (II Field Force, Vietnam - II FFV),
7- Quân đoàn 24 (XXIV Corp),
8- Lực lượng đặc nhiệm số 5 ( 5th Special Forces Group),
9- Cơ quan điều phối Dân sự vụ và Phát triển nông thôn) Civil Operations and Rural Development Support — CORDS),
10- Nhóm nghiên cứu và quan sát (Study-and Observations Group- SOG).
Tư lệnh MACV qua các thời kỳ 1962 -1973:
Vùng 1 chiến thuật:
Vùng 1 chiến thuật - Quân đoàn 1 thành lập ngày 1/6/1957, bao gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Bộ tư lệnh Vùng I chiến thuật đóng tại Đà Nẵng. Các khu chiến thuật trực thuộc vùng 1 là khu chiến thuật 11 (Bộ tư lệnh đóng tại Huế) gồm các tiểu khu Quảng Trị và Thừa Thiên; Khu chiến thuật 12 (Sở chỉ huy đóng tại Tam Kỳ) gồm các tiểu khu Quảng Ngãi, Quảng Tín và biệt khu Quảng Nam - Đà Nẵng.
Vùng 2 chiến thuật
Vùng 2 chiến thuật - Quân đoàn 2 thành lập ngày 1/10/1957, hoạt động tác chiến ở toàn bộ vùng cao nguyên miền Trung và vùng duyên hải Nam Trung bộ, bao gồm các tỉnh Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn, Bình Định, Phú Yên, Đắk Lắc, Khánh Hòa, Quảng Đức, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Lâm Đồng và Bình Thuận. Trong vùng 2 chiến thuật có vùng chiến thuật đặc biệt bán tự trị, gọi là Biệt khu 24 đóng tại thị xã Kon Tum do Trung đoàn độc lập 24 đảm nhiệm, bao gồm toàn bộ khu biên giới giáp Lào (thành lập tháng 7/1966 và giải thể tháng 4/1970). Bộ tư lệnh Vùng 2 chiến thuật đóng tại Pleiku bao gồm khu chiến thuật 22 (Bộ tư lệnh ở Quy Nhơn) có các tiểu khu Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn; Khu chiến thuật 23 (Bộ tư lệnh đóng tại Buôn Ma Thuột) gồm các tiểu khu Đắk Lắk, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh Thuận.
Vùng 3 chiến thuật
Vùng 3 chiến thuật - Quân đoàn 3 thành lập ngày 1/3/1959, chính thức hoạt động vào ngày 20/5/1960 bao gồm các tỉnh Phước Long, Bình Dương, Biên Hoà, Bình Long, Long Khánh, Phước Tuy, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An, Sài Gòn và Gia Định thành lập chi khu quân sự riêng. Vùng 3 chiến thuật có Khu chiến thuật 31 (Sở chỉ huy đóng tại Tây Ninh) gồm các tiểu khu Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An; Khu chiến thuật 32 (sở chỉ huy tại Bình Dương) gồm các tiểu khu Bình Long, Phước Long, Bình Dương; Khu chiến thuật 33 (Bộ Tư lệnh tại Biên Hoà) gồm các tiểu khu Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Biên Hoà, Biệt khu Thủ Đô (Sài Gòn - Gia Định)
Vùng 4 chiến thuật
Vùng 4 chiến thuật - Quân đoàn 4 thành lập ngày 1/1/1963, hoạt động tác chiến trên toàn bộ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm gần 1/2 dân cư và đất canh tác miền Nam Việt Nam, gồm các tỉnh Gò Công, Kiến Tường, Định Tường, Kiến Hoà, Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Châu Đốc, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, Chương Thiện, Bạc Liêu và An Xuyên. Vùng chiến thuật đặc biệt bán tự trị 44 nằm trong vùng 4 chiến thuật có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho khu vực phía Tây Bắc đồng bằng sông Cửu Long, dọc biên giới Việt Nam - Campuchia. Hoạt động đến năm 1973 thì giải thể. Vùng 4 chiến thuật có khu chiến thuật 41 (sở chỉ huy ở Mỹ Tho) gồm các tiểu khu Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình; Khu chiến thuật 42 (Bộ tư lệnh ở Cần Thơ) gồm các tiểu khu Kiên Giang, Phong Định, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên; Khu chiến thuật Tiền Giang (Bộ Tư lệnh ở Định Tường) gồm các tiểu khu Định Tường, Kiến Tường, Kiến Hoà, Gò Công...
Ngày 12/4/1961.
Giác thư về Việt Nam gửi Tổng thống Kennedy.
Đầu tháng 5/1961, Tổng thống Kennedy phái Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson tới Sài Gòn để tham khảo ý kiến với Tổng thống Ngô Đình Diệm, Việt Nam Cộng hoà về sự hỗ trợ của Mỹ trong tương lai. Một kết quả của tham vấn này là việc thành lập một Trung tâm thử nghiệm và Phát triển Khả năng tác chiến (CDTC- Combat Development and Test Center) Mỹ/Việt Nam Cộng hòa và phát triển tác chiến tại Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Cơ quan Dự án Nghiên cứu nâng cao của Bộ Quốc phòng (ARPA). Trung tâm CDTC được thành lập để phát triển các phương pháp chống nổi dậy và vũ khí mới, và một trong những nhiệm vụ đầu tiên của nó là để đánh giá việc sử dụng chất diệt cỏ tiêu diệt thảm thực vật nhiệt đới và nguồn cung cấp thực phẩm của đối phương. (Cecil, trang 22-23)
Một bản kiến nghị được trình lên Tổng thống John F. Kennedy đề xuất 9 hoạt động quân sự tại Nam Việt Nam trong đó có việc sử dụng các chất diệt cỏ.
Hàng loạt diễn biến dẫn đến việc đưa C.123 vào Nam Việt Nam phun rải hoá chất diệt cỏ có lẽ xảy ra vào ngày 12/4/1961. Hôm đó Walt W.Rostow, một trong những cố vấn đối ngoại của Tổng thống Kennedy gửi cho Tổng thống một giác thư về Việt Nam. Ông kiến nghị tổ chức một Hội nghị cấp cao trong tương lai gần để xem xét khả năng “đẩy mạnh” hoạt động trong toàn Nam Việt Nam, vì tại đó cuộc bầu cử đã tổ chức xong, Tổng thống Ngô Đình Diệm cần được tự do tiến hành những cải cách đã được kiến nghị trước đây. 9 quy trình hành động đã được ông đề cập trong giác thư của mình. Quy trình 5 nêu lên yêu cầu có một Nhóm nghiên cứu và phát triển trang bị đến Nam Việt Nam để làm việc bên cạnh Trưởng Phái bộ Viện trợ và cố vấn quân sự (MAAG) là Trung tướng Lục quân Lionel C.McGarr nhằm phát hiện công dụng của nhiều loại “kỹ thuật và trang bị” đã có hoặc đang phát triển. Nhưng vấn đề làm rụng lá cây bằng máy bay vẫn là một trong những “kỹ thuật và trang thiết bị” chưa được làm rõ.
Cũng trong tháng 4 này, Roswell L.Gilpatric, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ trình lên Tổng tống John F. Kennedy một giác thư có kiến nghị thành lập một Nhóm đặc nhiệm liên ngành. Những kiến nghị này bao gồm một chương trình đa diện nhằm ngăn chặn Việt cộng chiến thắng ở miền Nam Việt Nam. Tổng thống thông qua kiến nghị này và nhiều kiến nghị khác có giá trị hạn chế về quân sự được ghi trong báo cáo của Nhóm đặc nhiệm tại hội nghị Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 2/9/1961.
Tháng 4/1961
Khởi sự hoạt động Ranch Hand.
Tháng tư năm 1961, Đại úy Carl Marshall, sĩ quan hóa học của Phi đoàn phun rải đặc nhiệm hàng không (Special Aerial Spray Flight) đóng tại căn cứ không quân Langley nhận được một cuộc điều tra như tính khả thi của việc sử dụng các ứng dụng trên không của chất làm rụng lá ở Đông Nam Á. Đại úy Mario Cadori một cựu phi công SASF đã được phái đến từ Hàn Quốc để thiết lập các chương trình đào tạo các phi công KQVN. Bốn phi công có trình độ phun rải của SASF tại thời điểm này đã được bay trên phi cơ C-47 và L-20. Các đơn vị đã nhanh chóng được chuyển sang sử dụng C-123 và tăng cường với bốn phi công hướng dẫn có trình độ cao từ căn cứ không quân Pop.
Ngay sau Lễ Tạ ơn năm 1961, cuộc phiêu lưu bắt đầu. Chúng tôi đã đi đến căn cứ không quân Pop để nhận các phi hành viên bổ sung cần thiết để bay qua Thái Bình Dương. Chúng tôi rời căn cứ không quân Pop với sáu chiếc C- 123s biến thể với “xe téc” chứa bên trong có dung tích 1.000 ga lông chất lỏng. Các téc chứa đã được sử dụng như thùng nhiên liệu cho cuộc hành trình đến Việt Nam. Chúng tôi đến Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, Sài Gòn, Nam Việt Nam vào lúc 17h45 ngày 7/1/1962 để bắt đầu “tour du lịch” nổi tiếng nhất trong lịch sử cho một đơn vị máy bay Không quân Hoa Kỳ không có vũ khí và xác lập mình là đơn vị bị “dính” đạn của đối phương bắn lên nhiều nhất trong chiến tranh ở Việt Nam. Trong tháng 2 năm 1962 phi hành đoàn của chúng tôi mất một phi cơ, trong lúc làm nhiệm vụ huấn luyện. Chiếc C-123 mang số hiệu 384 cùng với ba người bạn của chúng tôi trong lúc làm nhiệm vụ đào tạo đã bị tử nạn. Tháng sau, phi cơ C-123 mang số hiệu 386 bị vết thương đầu tiên trong chiến dịch Ranch Hand.
Ngày 11/5/1961
Tại cuộc họp ngày 11/5/1961 của Hội đồng An ninh Quốc gia, Tổng thống John F. Kennedy lại khẳng định nhiều quyết định có tầm vóc tác động dài hạn. Mục tiêu của Mỹ tại Nam Việt Nam là: “ngăn chặn sự thống trị của Cộng sản ở Nam Việt Nam; thành lập tại quốc gia đó một xã hội có sức sống và ngày càng dân chủ, và trên cơ sở đẩy nhanh tốc độ chủ động tiến hành hàng loạt hành động quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý, và có tính chất bí mật để hỗ trợ lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu này.
Tổng thống đã khẳng định những hoạt động quân sự cụ thể được thông qua trước đây tại Hội nghị của Hội đồng An ninh Quốc gia (National Security Council.- NSC) vào ngày 19/4/1961, và do mối đe doạ an ninh quốc gia tăng sau những sự kiện xảy ra tại Lào làm cho biên giới của nước này với Nam Việt Nam không còn an toàn như trước, Ông đã chuẩn y 5 (năm) hành động bổ sung cần thiết. Chủ trương khai quang làm rụng lá (defoliation) cuối cùng có mối quan hệ với một trong hai hành động sau:
1/ Giúp các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam tăng cường khả năng tuần tra biên giới và chống nổi dậy nhờ thiết lập một hệ thống tình báo và tuần tra biên giới có hiệu quả;
2/ Giúp Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập Trung tâm Phát triển &Thực nghiệm khả năng tác chiến (The Combat Development and Test Center for Creation of New Techniques) tại Nam Việt Nam để phát triển những kỹ thuật chống các lực lượng Việt cộng.
Nhiệm vụ của Trung tâm này là: trực tiếp tìm kiếm, phát triển, thử nghiệm những vũ khí mới hoặc là nâng cấp những trang thiết bị sử dụng trong môi trường Đông Dương vốn hạn chế bởi những điều kiện chính trị, tâm lý (như đã từng bị Cộng sản cáo buộc về việc Mỹ tiến hành chiến tranh vi trùng (sinh học) tại Triều Tiên).
Hai kiến nghị trên được đề cập trong thư của Tổng thống John F. Kennedy ngày 8 tháng 5 năm 1961 và được Tổng thống Ngô Đình Diệm đồng ý công bố trong một Thông cáo chung với Phó tổng thống Lyndon B. Johnson ngày 13 tháng 5 năm 1961 và trong thư riêng gửi Tổng thống John F. Kennedy ngày 15 tháng 5 năm 1961.
Ngày 12/5/1961
Phó Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson tới Sài Gòn gặp Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm. Trong các quyết định đưa ra lần này có nhắc đến việc thành lập một Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển Khả năng Tác chiến nhằm phát triển những kỹ thuật mới trên cơ sở những công nghệ mới sử dụng chống lại lực lượng Việt cộng. Trung tâm này có nhiêm vụ xem xét việc sử dụng chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides – chất diệt cỏ dùng vào mục đích chiến tranh) để huỷ diệt các khu rừng nơi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và bộ đội miền Bắc ẩn trú, đồng thời huỷ hoại cây lương thực của họ.
Ngoài ra, những hoạt động nói trên (khai quang, phá hủy hoa màu) cũng nhằm mục đích sử dụng vũ khí hóa học như một phương tiện để thúc đẩy chính sách quân sự và đối ngoại của Hoa Kỳ ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Ngày 15/5/1961
Sau khi John F. Kennedy nhậm chức Tổng thống Mỹ, Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) đã họp và ra tuyên bố “Để ngăn chặn Cộng sản xâm lược Nam Việt Nam, quyết định sử dụng chất diệt cỏ (herbicides) và các kỹ thuật tân kỳ khác để kiểm soát các đường bộ và đường thuỷ dọc theo biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia”.
Ngay sau đó, một Phái đoàn quân sự do cố vấn trưởng Walt W. Rostow dẫn đầu được phái tới Nam Việt Nam để triển khai thực hiện ý đồ nêu trên.
Trong cuộc họp ngày 3 tháng 7 năm 1961 tại Phòng BA (Phòng Hành quân)/Bộ TTM/QLVNCH, Đại tá cố vấn Mỹ Chilson thông báo: “vào ngày 13 tháng 7 tới sẽ có 2 chuyên viên hoá học từ Hoa Kỳ sang để thực hiện phun rải thí nghiệm các chất diệt cỏ: Dinoxol và Trinoxol. Dụng cụ và chi viện của Hoa Kỳ đều sẵn sàng hoạt động vào ngày 1 tháng 8 năm 1961. Phái bộ Viện trợ và Cố vấn quân sự Hoa kỳ (Military Advisor Assistance Group - (MAAG) đề nghị sử dụng một chiếc máy bay AD - 6, hai chiếc trực thăng H - 34 và một chiếc C- 47; đồng thời lựa chọn khu vực trắc nghiệm trước”…
Tháng 6/1961
Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển Khả năng Tác chiến hỗn hợp Mỹ - Việt. (The Joint US./Vietnamese Combat Development and Tets Center) được thành lập ở Sài Gòn.
Ngày 10/7/1961
Kế hoạch khai quang của MAAG
Với sự xâm nhập của Việt cộng vào sâu vùng trung tâm của Nam Việt Nam bằng cách lợi dụng sự che phủ của thiên nhiên, tại sở chỉ huy của Phái bộ Viện trợ và Cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MAAG), người ta đã đặt ra yêu cầu phải loại bỏ khả năng che phủ của lá rừng vào tháng 7 năm 1961. Lúc bấy giờ, kế hoạch chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu làm rụng lá dọc theo các trục giao thông liên lạc, kênh đào và những trục đường chính, để ngăn chặn các cuộc tập kích và ngăn cản quân đội đối phương sử dụng những con đường sống còn này. /AO.59 – 7/.
Giữa năm 1961, Phi đội Đặc nhiệm phun rải đường không (Special Aerial Spray Flight SASF) nhận được 2 máy bay C.123 để các phi công kiểm tra và thực hành thí nghiệm phun rải từ trên không. Phi đội gồm 4 phi công, 1 chuyên viên côn trùng học, 1 trợ lý cho chuyên viên côn trùng học, 1 văn thư và 20 nhân viên bảo hành.
Vào tháng 7, suy nghĩ đã chuyển từ những khái niệm chung về: “kỹ thuật và công cụ” thành những kiến nghị cụ thể, kể cả sử dụng chất làm rụng lá. Một báo cáo tình hình, tính đến ngày 10 tháng 7 năm 1961, nhấn mạnh rằng: Nhóm Nghiên cứu và Phát triển đã chú ý đến vấn đề muốn quản lý có hiệu quả hơn vùng biên giới Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn những phần tử thù địch bằng cách sử dụng hoá chất làm chết cây để dọn sạch những “đốm lửa” dọc biên giới. Cũng trong tuần kết thúc vào ngày 10 tháng 7 năm 1961, hoá chất làm rụng lá cây được chuyển đến Sài Gòn cho Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến mới được thành lập làm thí nghiệm.
Bắt đầu từ tháng 7 năm 1961, các trang bị và hoá chất được hối hả chuyển vào Nam Việt Nam qua cảng Sài Gòn.
Một trong những tài liệu về chiến tranh Việt Nam đã được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ giải mật gần đây, đó là tài liệu “A Review of the Herbicides Program in South Vietnam”. Trong tập tài liệu này, ý định và lý do việc phun rải hoá chất khai quang tại những khu rừng rậm và khu thưa dân được Chính phủ Hoa Kỳ giải thích tương đối rõ ràng, ý định đầu tiên về chiến dịch khai quang ở Việt Nam đã nảy sinh từ tháng 7 năm 1961. Giới hữu trách Hoa Kỳ lúc bấy giờ đã nghĩ rằng phương pháp khai quang có thể sử dụng để gia tăng khả năng và tầm quan sát dọc theo các trục lộ giao thông và đồng thời chặn đứng đường tiếp tế lương thực của đối phương.
Ngày 8/8/1961
Lựa chọn mục tiêu
Sau buổi họp tại Kon Tum, BTL Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) đồng ý chấp thuận chọn quận Đắc Tô làm thí điểm phun rải chất diệt cỏ chiến thuật (tactical herbicides).
Ngày 10/8/1961
Phi vụ phun rải thí điểm thứ nhất
Một chiếc trực thăng sơn cờ vàng 3 sọc đỏ của Không lực Sài Gòn đã bay dọc theo quốc lộ 14 từ thị xã Kon Tum lên Đắc Tô. Đây là chuyến bay phun rải chất độc hoá học đầu tiên ở chiến trường Nam Việt Nam. Trên trực thăng H-34 có lắp thiết bị phun FIDAL (Fixed Wing Insectiside Dispersal Appatus Liquid). Đợt thí nghiệm này phải mất 3 ngày mới hoàn tất vì thiếu phương tiện.
Ngày 11/8/1961
Phi vụ phun rải thí điểm thứ hai
Vào lúc 11h, BTL Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) lên Kon Tum phun thử chất Trinoxol lên cây khoai lang, sắn, chuối và cỏ tranh ngay sau Tỉnh đường Kon Tum. Đến 12h45, tất cả các loài thảo mộc đều bị héo rũ. Cuộc thử nghiệm này hoàn toàn có kết quả nên TTTN/PTKNTC đã đề nghị Hoa Kỳ viện trợ thêm hoá chất khai quang này.
Ngày 15/8/1961
Phun rải hóa chất dạng bột
Trong khuôn khổ kế hoạch Staley - Taylor nhằm bình định Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng, Không quân Mỹ đã phun rải xuống vùng Nop, phía tây huyện Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận một loại bột màu trắng, khi rơi xuống toả ra như sương mù, huỷ hoại mùa màng. Cũng vào thời gian này, hoá chất khai quang được phun rải dọc đường 15 nối liền Biên Hoà - Vũng Tàu để giải toả con đường này lúc đó đang bị quân du kích kiểm soát.
Ngày 18/8/1961
Tổng thống Mỹ đi thị sát thực địa
Tổng thống John F. Kennedy cùng cố vấn quân sự - Đại tướng Tera đi thị sát thực địa tuyên bố rằng “...trong vòng 18 tháng sẽ bình định Nam Việt Nam và tấn công ra miền Bắc Việt Nam"./Sách NB-VN Osaca 45 năm.
Ngày 24/8/1961
Ngô Đình Diệm lựa chọn mục tiêu khai quang
Một máy bay của quân đội Sài Gòn đã thực hiện chuyến bay phun rải hoá chất khai quang (Dinoxol) đầu tiên bằng máy bay có cánh cố định (C.47) xuống một quãng đường ở phía bắc Sài Gòn. Mục tiêu này do Tổng thống Ngô Đình Diệm đích thân lựa chọn, trên một địa bàn dài 80 km, dọc theo QL.13 bắc Sài Gòn, gần làng Chơn Thành. Cả hai phi vụ thứ nhất dọc QL.14 và phi vụ thứ hai dọc QL.13 đều sử dụng chất diệt cỏ Dinoxol /AO.77- 27/. Biệt đội phun rải hoá chất trên không đã cung cấp thiết bị phun rải cho máy bay C.47 của Không quân Sài Gòn, đồng thời cử Thượng sĩ Leon o. Roe đến Nam Việt Nam để lắp đặt. Đại uý Mario D.Cadori phi công rất có kinh nghiêm phun rải hoá chất từng công tác tại Biệt đội khi hoạt động trong khu vực thuộc quyền Bộ Tư lệnh Không quân thuộc BTLThái Bình Dương (CINPAC) đến huấn luyện phương pháp bay và phun rải tầm thấp cho phi công quân đội Sài Gòn đang bay thí nghiệm trên C.47. /The Ait Force and Herbicides in SEA/.
Ngày 28/8/1961
3 chiếc máy bay Mỹ phun rải chất độc hoá học xuống xã Áp Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bình Long làm nhiều người trong xã bị đau đầu dữ dội và khó thở, nhiều gia súc bị chết hoặc ốm; cây ăn quả và cây lương thực bị héo rũ, chết khô.
Ngày 23/9/1961
Thông điệp của Chính phủ Hoa Kỳ
Bộ Quốc phòng và Chính phủ Hoa Kỳ ra thông điệp chung nhấn mạnh phải tiến hành khẩn cấp các hoạt động hỗ trợ chính quyền Sài Gòn. Thông điệp đề xuất triển khai chương trình Khai quang. Cũng vào thời gian đó, Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến đã soạn thảo một Chương trình tác chiến quy mô lớn trên cơ sở những kết quả thuận lợi của những thí nghiệm lên cây sắn và lá rừng. Kế hoạch có 4 mục tiêu:
- Làm cho biên giới Campuchia, Lào và Bắc Việt Nam không còn lá cây để che phủ lực lượng đưa tăng cường cho Việt Cộng;
- Làm rụng lá một phần của Đồng bằng sông Cửu Long có tên gọi là Chiến khu D là nơi Việt Cộng có nhiều căn cứ;
- Phá huỷ các nương sắn hoang mà Việt Cộng dùng làm thực phẩm;
- Phá huỷ các khu rừng ngập mặn mà Việt Cộng dùng để cư trú.
Chiến dịch sẽ dược thực hiện qua hai giai đoạn:
Giai đoạn I: Trong vòng 30 ngày làm rụng lá dược 20% Chiến khu D và vùng biên giới Campuchia lân cận, các nương sắn và các khu rừng ngập mặn;
Giai đoạn II: Trong vòng 90 ngày, sau khi kết thúc giai đoạn I, tiếp tục làm rụng lá 80% còn lại của Chiến khu D, toàn bộ biên giới tiếp giáp với CPC và Lào, các nương sắn và rừng ngập mặn còn lại do Việt Cộng chiếm giữ.
Trong cả hai giai đoạn, Kế hoạch này dự kiến sẽ làm rụng lá khoảng 31.250 dặm vuông rừng. Đó là một diện tích bằng một phần nửa Nam Việt Nam (!). Ngoài ra, kiến nghị còn kêu gọi phun rải hoá chất trên 1.125 dặm vuông rừng ngập mặn và 312 dặm vuông diện tích trồng sắn. Kế hoạch này cũng đòi hỏi khu vực bị phun rải sẽ bị thiêu đốt khi cây cối bị khô héo đủ mức.
Chi phí do Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển khả năng tác chiến đề nghị là 75 - 80 triệu USD và thực tế là mức tiêu thụ chất diệt cỏ vượt quá khả năng sản xuất hiện thời ở Mỹ, điều này cho thấy quy mô của nó rất lớn.
Trong nội bộ Bộ Quốc phòng Mỹ có những tiếng nói chống lại Chương trình này, nhưng không được ai chú ý. /The Air Force and Herbicides in SEA/.
Sau đó vài ngày, một Chương trình làm rụng lá khác quy mô nhỏ hơn do các quan chức Mỹ tại Sài Gòn soạn thảo ra đã thay thế Chương trình quy mô lớn nêu trên.
Ngày 29/9/1961
Ngô Đình Diệm bàn bạc sử dụng chất khai quang với Phái đoàn Mỹ
Trong vài tuần tiến hành thử nghiệm đầu tiên, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bàn sử dụng hoá chất diệt cỏ cho nhiều mục tiêu khác nhau. Ngày 29/9/1961 tại Dinh Độc Lập, Sài Gòn, ông Diệm và các cố vấn đã gặp Phái đoàn Mỹ gồm đại sứ F.E.Nolting, Tướng McGarr, Trưởng Phái bộ MAAG - Việt Nam, Đô đốc H.D.Felt, Tư lệnh Thái Bình Dương. Họ đã thảo luận nhiều vấn đề và đến cuối thì chuyển sang tình hình tăng gia sản xuất của Việt Cộng. Tổng thống Diệm tỏ rõ quan tâm một thực tế là nhiều vùng đất sâu xa rộng lớn đã bị Việt Cộng lợi dụng cưỡng bức người Thượng khai hoang và trồng lúa. ông ta nói chỉ trong vòng một tháng, kẻ thù có thể thu hoạch được nhiều lương thực. Do đó, ông đề nghị phải ngay lập tức tìm cách phá huỷ vụ mùa trước khi chúng thu hoạch. Diệm nói rằng ông có nghe nói đến loại bột có thể sử dụng để phá hoại lúa, nhưng trước hết Tổng thống Kennedy phải chấp thuận cho sử dụng hoá chất đó. Sau khi thảo luận, kết luận cuối cùng là các cố vấn của Diệm đã nhầm lẫn giữa một chất diệt cỏ sẵn có với những hoá chất có tác dụng mạnh hơn và nằm trong danh mục vũ khí huỷ diệt hàng loạt (NBC - Hạt nhân, Sinh học và Hoá học). Tuy nhiên, Diệm nhấn mạnh rằng ông không quan tâm cái gì được sử dụng nếu như chúng có thể làm cho Việt Cộng không thể tăng gia trong những vùng sâu, vùng xa./AO. 20-37/.
Ngày 30/10/1961
Bộ Ngoại giao VNDCCH tố cáo.
Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã gửi công hàm cho 103 nước trên thế giới tố cáo Hoa Kỳ kể từ năm 1954 cho đến nay đã đưa hàng ngàn nhân viên quân sự và hàng chục tấn vũ khí và chất độc hoá học để giết hại dân thường và phá hoại mùa màng ở Nam Việt Nam.
Tháng 10/1961
Phá hoại mùa màng với tư cách là một vũ khí.
Trong tháng 10 năm 1961 đã có 6 máy bay vận tải C.123 được chuyển giao cho Tư lệnh không quân chiến thuật tại căn cứ Clark Firth, Philipines của Không lực Hoa Kỳ.
Vấn đề phá hoại mùa màng với tư cách là một vũ khí trong loại chiến tranh du kích không hề bị bỏ qua ngay từ thời điểm đầu tiên này, Cùng với việc khai quang làm rụng lá, mục tiêu phá hoại mùa màng cũng đã được xem xét trong tháng 10 năm 1961. Cơ sở biện minh chủ yếu được đặt ra vào lúc này và sau đó tiếp tục biện minh cho chương trình này là: loại trừ khả năng tiếp cận của Việt cộng với các nguồn lương thực tiếp tế từ nông dân địa phương bổ sung cho số được đưa từ miền Bắc Việt Nam vào. Vấn đề trực tiếp trước mắt ở trong một nước cơ bản là nông nghiệp như Viêt Nam là các vụ mùa bị phá hoại sẽ gây tổn thương cho dân lành và có thể tác động rất lớn đến lòng trung thành của họ đối với chính quyền Sài Gòn vốn là một nền tảng không có gì vững chắc cả.
Hoạt động phá hoại mùa màng bằng hóa chất đòi hỏi không quân VNCH sử dụng trực thăng H-34 phun rải lên những vùng được chọn lọc kỹ. Ngoài ra, phía Việt Nam phải kiểm soát việc lựa chọn mục tiêu và đảm bảo khả năng bảo trì cho các máy bay. Mỹ sẽ cung cấp chất khai quang đến tận cảng bốc dỡ cũng như các hoạt động tư vấn, bảo hành kỹ thuật. Trưởng Phái bộ MAAG và Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã đồng ý rằng chương trình đã có đủ điều kiện để tiến hành thực nghiệm. Một chương trình chiến tranh tâm lý đã được vạch ra để chống lại những tác động do hoạt động tuyên truyền của cộng sản chắc chắn sẽ xảy ra. /Project CORONA HARVEST, AO.59 - 10/.
Ngày 3/11/1961
Báo cáo của Tướng Taylor- đại diện quân sự của Tổng thống gửi Tổng thống.
Thưa Tổng thống: Tôi gửi kèm báo cáo chuyển đi của tôi đến thăm Nam Việt Nam, Thái Lan và Hồng Công trong thời gian từ 15/10 đến 3/11/1961.
“Khai quang bằng sức người” (“Human Defoliation”). Để thay thế cho việc chia cắt Chiến khu D bằng hóa chất khai quang, một khuyến cáo được đưa ra để xem xét, đó là việc trao một quyết định khai thác gỗ tại chiến khu D cho một công ty thương mại của Trung Hoa dân quốc (Đài Loan) - Formosa, công ty này có thể là một công ty phi lợi nhuận, sử dụng các cựu chiến binh Trung Hoa dân quốc (tuổi từ 35-40), họ có thể được trang bị để tự vệ (hoặc trò chơi săn bắn). Gỗ cứng tại chiến khu D tốt cho khai thác, gỗ ở đây được tiêu thụ trên thị trường Việt Nam cũng như ở nước ngoài. Nếu muốn công ty Đài Loan có thể hoạt động chung với các Cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa. Khi gặp lực lượng Việt cộng lớn, quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ mở một cuộc tấn công. Các thợ đốn cây có thể đối phó với một lực lượng nhỏ đối phương. Một hoạt động như vậy sẽ có lợi ích nâng cao tinh thần Formosa, mặc dù hoạt động đội lốt dân sự nhưng giải quyết một phần của vấn đề cựu chiến binh được đặt ra. /Foreign Relations US, 1961-1963, Vol 1, Vietnam, 1961 - Quan hệ Đổi ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963, Tập 1, Việt Nam, 1961/.
Ngày 3/11/1961
Triển khai Chương trình khai quang 3 giai đoạn.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert s. McNamara nhận lệnh triển khai Chương trình Khai quang, phá huỷ hoa màu tại Nam Việt Nam theo 3 giai đoạn. Robert s. McNamara yêu cầu các chỉ huy lực lượng Không quân ưu tiên cung cấp các máy bay C-123 (Fairchild), nhân lực và hoá chất cho chiến dịch Ranch Hand.
Trong một giác thư đề ngày 3/11/1961, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân đã khuyến nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert s. McNamara rằng Đô đốc Felt - Tư lệnh BTL Thái Bình Dương phải được phép triển khai kế hoạch khai quang rụng lá giai đoạn 3 có tính chất hạn chế nói trên. Giác thư của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân cũng nhấn mạnh rằng những hành động này phải được thực hiện, hiệp đồng với những cuộc tấn công phối hợp vào lực lượng Việt cộng. Tuy nhiên, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân (JGS) cũng cảnh báo về khả năng phá hoại mùa màng, khi tiến hành các hoạt động khai quang rụng lá bằng máy bay trên những mảnh đất trồng sắn hoang hoặc vùng trồng cây lương thực khác phải hết sức cẩn thận không để Mỹ thành mục tiêu bị tố cáo là tiến hành chiến tranh hóa học và sinh học. Liên quan đến vấn đề này, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân khuyến nghị rằng các hoạt động phải có ngụy trang đồng thời với mở chiến dịch tuyên truyền như Nhóm Đặc nhiệm tại Việt Nam phác họa ở Sài Gòn.
Khuyến nghị sau cùng này cũng phản ánh sự ngờ vực của Tướng Lyman L. Limitzer - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân về giá trị của chương trình phá hoại hoa màu ở Việt Nam. Mấy tháng trước đó, ông đã viết thư cho Tướng M. Taylor, cố vấn quân sự của Tổng thống Kennedy và lưu ý không nên quá so sánh rập khuôn giữa kinh nghiệm của người Anh tại Malaysia với tình hình mà Chính phủ Diệm đang đối phó tại Việt Nam. Ông chỉ ra rằng ở Malaysia lương thực thường khan hiếm, nên chương trình ngăn chặn của người Anh trở nên quan trọng và là vũ khí có thể sử dụng ngay được. Limitzer đã đối chiếu với tình hình lương thực tương đối dồi dào ở Nam Việt Nam, và do đó ông nghi ngờ về tính hiệu quả của chiến dịch ngăn chặn lương thực.
Ngày 7/11/1961
Văn thư trả lời của Bộ trưởng Quốc phòng.
Ngày 7/11, Bộ trưởng McNamara đã trả lời những khuyến nghị của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân. Ông cũng quan tâm đến khả năng tác động ngược chiều về tuyên truyền, nhưng ông không giới hạn mức quan tâm ở giai đoạn ngăn chặn lương thực. Ông đã yêu cầu Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn nhận xét khả năng thuyết phục Tổng thống Ngô Đình Diệm chịu nhận trách nhiệm về chương trình được đề nghị và ban hành một tuyên bố rõ ràng trước công chúng, nêu lên lập luận mà lúc ấy mọi người đều tin là việc phun rải chất khai quang sẽ không nguy hại cho gia súc và con người. Trong khi tìm cách bào chữa chương trình khai quang trước luận điệu tuyên truyền chống lại, Bộ trưởng Mc.Namara nói rằng ông không thể quyết định tiến hành hay không. Tuy nhiên, ông cũng nhận ra những hạn chế về thời gian thực hiện ý định tấn công phá hoại hoa màu của Việt cộng đang chín rộ nhanh. Để bảo vệ sự lựa chọn của mình, Bộ trưởng Mc.Namara đã chỉ thị cho không quân “trên cơ sở ưu tiên, cung cấp các máy bay, nhân lực và hóa chất cần thiết”. Ông đã giao nhiệm vụ giám sát dự án cho Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (CINPAC).
Bộ trưởng Quốc phòng Mc.Namara, tuyên bố trong một giác thư gửi Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, là ông ta tin rằng hóa chất được phun rải không có hại cho người và gia súc. /AO.37B-17/. Năm 1967, Giám đốc Cơ quan Nghiên cứu và Kỹ thuật quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng, John s. Foster tuyên bố với Hội những người Mỹ vì tiến bộ khoa học rằng các nhà khoa học nổi tiếng đã coi là việc sử dụng các chất diệt cỏ ở Việt Nam không gây ra những nguy hiểm gì cho môi sinh cả. (và tới năm 1968, Foster nói rằng Bộ Quốc phòng vẫn còn tin rằng chất diệt cỏ không gây ảnh hưởng xấu kéo dài lên dân chúng Nam Việt Nam).
Ngày 17/11/1961
Chủ đề: Sử dụng hóa chất khai quang ở Việt Nam.
Bản ghi nhớ của Robert Harold Johnson (quan chức Hội đồng An ninh Quốc gia) gửi Trợ lý đặc biệt của Tổng thống về an ninh Quốc gia (Rostow)
Tôi (Robert H. Johnson) nghĩ rằng nếu chúng ta (Hoa Kỳ) sẽ đối phó thành công với cáo buộc mà chúng ta đang tham gia vào chiến tranh vi trùng (germ) hay chiến tranh hóa học thì chúng ta phải công khai các hoạt động sử dụng chất khai quang tại Việt Nam càng sớm càng tốt.
Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court - ICC) sẽ có thể kiểm tra từng thùng hóa chất để xác định rằng đó là những gì mà chúng ta nói. Nếu chúng ta theo đuổi chính sách để cho Tòa án hình sự quốc tế tìm hiểu cho là chúng ta đang vi phạm các Hiệp ước Geneva (Geneva Accords), điều này có thể là không thể. Sẽ là khó khăn, trong mọi trường hợp, để có được ICC đồng ý với bất kỳ hành động như vậy. Một cách tiếp cận thay thế sẽ được giao cho một số Tổ chức quốc tế khác hoặc một nhóm các nhà khoa học tư nhân. Phải công khai nhấn mạnh rằng các tác nhân hóa học liên quan là cùng loại được sử dụng bởi người nông dân Mỹ để diệt cỏ dại.
Dự toán chi phí cho chương trình này dường như đã tăng liên tục. Hồi đầu tuần này, tổng chi phí cho giai đoạn I - phá hủy mùa màng là 4 triệu USD (1 triệu cho hóa chất, 3 triệu cho các phi vụ phun rải bằng máy bay), bây giờ tăng lên 10-15 triệu USD. Ước tính tổng chi phí cho cả 3 giai đoạn là 70 triệu USD. Giai đoạn tiếp theo là khai quang rụng lá có chọn lọc tại chiến khu D và các tuyến đường giao thông nối Sài Gòn với các thành phố quan trọng khác, và khai quang những cánh rừng dọc theo biên giới Nam Việt Nam - Campuchia.
Tôi không chắc là Tổng thống đang được yêu cầu chấp thuận tất cả ba giai đoạn, về mặt chính trị, khai quang rụng lá khu vực xung quanh chiến khu D và dọc theo các tuyển đường giao thông đến các thành phố có vẻ như ít khó khăn nhất. Nguy cơ chính trị trong hoạt động sử dụng chất khai quang là việc sử dụng hóa chất có thể biến người dân không cộng sản có cây trồng bị vô tình phá hủy chống lại chính quyền Sài Gòn. Tất nhiên, đó là một trong những nhược điểm của tất cả ba giai đoạn đề xuất. /Bộ Ngoại giao, s/p Files: Lot 67 D 548, Sept. - Dec. 1961/.
Ngày 17/11/1961
Tờ trình của Neilson - Trợ lý Giám đốc Viễn Đông gửi cho Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ (Murow).
Chủ đề: Sử dụng chất khai quang ở Việt Nam
Tôi xin thông báo rằng Bộ Quốc phòng đã soạn thảo một Tờ trình gửi Nhà Trắng nhằm tìm kiếm quyết định của Tổng thống về việc sử dụng các chất làm rụng lá ở Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhận được sự đồng thuận của Bộ Ngoại giao trước khi trình lên Tổng thống. Một nhân viên của tôi đã nhìn thấy Tờ trình trong Văn phòng của Tổ công tác (Task Force) Việt Nam hôm qua.
Tờ trình đã liệt kê hai mục tiêu chính trong việc sử dụng chất làm rụng lá:
a) Phá hoại hoa màu, cắt nguồn cung cấp thực phẩm cho Việt Cộng.
b) Thiết lập một một khu vực núi trọc dọc theo biên giới Việt Nam (với Campuchia, Lào hoặc cả hai) để kiểm soát Việt Cộng xâm nhập.
Tờ trình cũng liệt kê những yếu tố tiêu cực, chủ yếu là tâm lý, cần được xem xét trong quá trình ra quyết định.
Tôi (Nielson) không biết liệu các yếu tố sau đây đã được xem xét cho đến nay trong quá trình ra quyết định ở Washington:
Việc sử dụng vũ khí hóa học tại một quốc gia châu Á có thể tạo ra một cơn bão chỉ trích rằng: Lợi thế quân sự trước mắt trên mặt đất ở Việt Nam có thể được bù bằng một vụ thu hoạch ác ý có hại cho một số mục tiêu dài hạn ở Việt Nam và khu vực (Đông Nam Á). Tất nhiên, Khối Cộng sản sẽ sử dụng cam kết của Mỹ và Tổng thống Diệm làm “vốn” cho công tác tuyên truyền như họ đã làm để cáo buộc Mỹ sử dụng vũ khí sinh học ở Triều Tiên.
Ngày 21/11/1961
Sử dụng chất diệt cỏ
Giác thư của Phó Trợ lý đặc biệt của Tổng thống về vấn đề an ninh quốc gia (Walt Rostow) gửi Tổng thống Kennedy.
Tổng thống sẽ nhận được các văn bản từ Bộ Quốc phòng và Chính phủ để sớm đưa ra câu trả lời liệu chúng ta có nên hỗ trợ việc sử dụng một loại chất diệt cỏ để phá hoại mùa màng tại các khu vực trên cao nguyên, đặc biệt là đối với một cuộc tấn công vào chiến khu D. Quyết định của Tổng thống là cần thiết vì đây là một loại vũ khí hóa học. (Quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963 ,Tập I, Việt Nam , 1961: Tài liệu 265).
Ngày 24/11/1961
Giác thư của Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ trình Tổng thống
Chủ đề: Hoạt động chất làm rụng lá ở Việt Nam
Tôi đồng tình với biên bản ghi nhớ đính kèm của ông Gilpatric về chủ đề nói trên. Việc sử dụng các chất làm rụng lá không vi phạm bất kỳ quy tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến việc tiến hành chiến tranh hóa học và là một chiến thuật được chấp nhận trong chiến tranh. Tiền lệ đã được thiết lập bởi người Anh trong tình trạng khẩn cấp tại Malaysia trong việc sử dụng máy bay trực thăng phun rải hóa chất để phá hủy cây trồng. Tất nhiên, chúng ta sẽ là đối tượng của Cộng sản về một cuộc "chiến tranh sinh học". Tổng thống sẽ nhớ lại rằng đây là trường họp trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, mặc dù những cáo buộc của Cộng sản không có cơ sở thực tế bất cứ điều gì.
Mặt khác, tôi hài lòng rằng các hoạt động Ranch Hand thành công tại Việt Nam có thể được hỗ trợ đáng kể trong việc kiểm soát và làm thất bại Việt Cộng. Thực hiện các hoạt động Ranch Hand sẽ được lên kế hoạch và phối hợp giữa Chính phủ, Bộ Quốc phòng, USIA, CINCPAC, Bộ Ngoại giao, và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa một cách cẩn thận. Kế hoạch chi tiết về vấn đề này đã được xây dựng.
Vì vậy, tôi khuyên Tổng thống nên chấp nhận các cam kết của các hoạt động đó theo quy định tại khoản 8 (b) trong giác thư của ông Gilpatric; có nghĩa là "đi trước với một chương trình chọn lọc và kiểm soát chặt chẽ bắt đầu với phun rải chất khai quang các tuyến đường giao thông trọng điểm, sau đó tiến hành phá hoại mùa màng bằng hóa chất và chiếm giữ chiến khu D và khu vực biên giới.
Tôi cũng đồng tình trong đề nghị của ông Gilpatric rằng điều này nên được thực hiện chỉ sau khi xem xét một cách thận trọng về kế hoạch phát triển bởi Tư lệnh Thái Bình Dương (CINCPAC) và Bộ Ngoại giao. Dean Rusk /xem NSAM số 115 trong Hoa Kỳ - Hệ Việt Nam, 1945-1967, quyển II, p.425. Quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963, Tập I, Việt Nam, 1961: Tài liệu 275.
Ngày 27/11/1961
Lương thực là mục tiêu tấn công của chất khai quang
Tạp chí Mỹ News Week đưa tin, các máy bay Mỹ đã phun rải nhiều chất độc hoá học xuống đồng ruộng Nam Việt Nam để phá huỷ hoa màu. Đối với Mỹ, chiến tranh Việt Nam và chương trình “bình định nông thôn” là gần như đồng nghĩa với nhau. Việc sử dụng chất diệt cây, phá huỷ hoa màu mà Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc luôn luôn ủng hộ là một mặt của chính sách đó. Mặc dù, họ đã nhận thấy rằng, việc phá huỷ hoa màu của đối phương là vi phạm Luật pháp quốc tế và là một tội ác chiến tranh.
Chất diệt cỏ đã được thí nghiệm đầu tiên ở Việt Nam từ tháng 8 năm 1961. Cuộc thảo luận về việc sử dụng chất diệt cỏ đã lập tức dẫn đến mối lo sợ bị “lên án” là dã man vì thực hiện một hình thức của chiến tranh hoá học. Nhưng, lập luận của phái “diều hâu” trong Lầu Năm Góc đã thuyết phục được Tổng thống và tháng 11 năm 1961, Chương trình khai quang đã được bắt đầu và “đánh” cả vào mùa màng nhằm cắt đứt nguồn tiếp tế của Cộng sản.
J.H. Rothschild khi ở cương vị Tư lệnh Binh chủng Hoá học thuộc Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ ở Viễn Đông cho rằng: “Lương thực là một mục tiêu tấn công của chất độc hoá học”. Những cố gắng nhằm giảm bớt việc cung cấp lương thực của đối phương rất có ý nghĩa trong mọi cuộc chiến tranh. Biện pháp thông thường là phong toả, ngăn chặn sự cung cấp lương thực từ bên ngoài hoặc huỷ hoại cây lương thực và đất đai canh tác tại chỗ. Cuối chiến tranh Thế giới lần thứ II, Không quân Mỹ đã có kế hoạch sử dụng các chất diệt cỏ để huỷ hoại những cánh đồng lúa rộng lớn xung quanh ngoại ô 6 thành phố lớn của Nhật Bản: Tokyo, Iocohama, Ôxaca, Nagoia, Kyoto và Kobe. Song chưa kịp thực hiện thì chiến tranh đã chấm dứt.
Ngày 30/11/1961
Tổng thống Kennedy chuẩn y đồng khuyến nghị
Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy chính thức chuẩn y đồng khuyến nghị của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng tiến hành một Chương trình khai quang bằng chất diệt cỏ chiến thuật (Tactical Herbicides, Herbicide war) quy mô lớn trong chiến tranh Việt Nam. /AO. 8-13/. Cả hai Bộ này chủ trương dùng chất diệt cỏ chiến thuật chỉ nhằm phát quang mà thôi, rõ ràng họ đã nhận thấy rằng việc phá hoại mùa màng của kẻ thù là vi phạm luật pháp quốc tế và là một tội ác chiến tranh, và do đó không còn muốn công khai chấp nhận một chương trình như vậy. /Đơn kiện của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam/.
Ngay từ rất sớm trong cuộc xung đột ở Việt Nam, Chính phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu tìm kiếm khả năng sử dụng chất da cam nhằm loại trừ khả năng lợi dụng thảm thực vật che phủ để xâm nhập vào miền Nam Việt Nam. Cuối năm 1961, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã khuyến nghị Tổng thống Kennedy rằng quân đội muốn tiến hành một chương trình khai quang, Tổng thống đã nhanh chóng chấp thuận khuyến nghị đó vào ngày 30/11/1961, chuẩn y việc phát động các chiến dịch chất diệt cỏ ở Việt Nam.
Operation Trail Dust là tên của toàn bộ chiến dịch chất diệt cỏ, bao gồm trong đó có chiến dịch Ranch Hand của Không quân Hoa Kỳ. Chiến dịch Ranch Hand này bắt đầu các phi vụ khai quang vào tháng 1/1962. Các phi vụ nhằm vào phá hoại hoa màu cỏ tác dụng nuôi sống các lực lượng đối phương được bắt đầu vào tháng 11 năm đó.
Cả hai Bộ này đều chủ trương dùng chất diệt cỏ nhằm đơn thuần khai quang rụng lá và họ hoàn toàn nhận rõ việc phá hoại mùa màng của kẻ thù là vi phạm một cách rõ ràng Luật quốc tế và là một tội ác chiến tranh.
Tổng thống Kennedy ra lệnh buộc mọi triển khai chương trình diệt cỏ (herbicidal program), phun rải trên mọi mục tiêu đều phải được Nhà Trắng đồng ý trước.
Bộ trưởng Quốc phòng đánh giá hoạt động khai quang
Các chất diệt cỏ đã có hiệu lực đáp ứng những mục tiêu quân sự quan trọng của lực lượng Hoa Kỳ và Đồng minh ở Việt Nam. Đúng như cách giải thích của trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng William Lemos đã nhấn mạnh: “Một trong những vấn đề khó khăn nhất trong hoạt động quân sự ở Việt Nam là thiếu khả năng quan sát kẻ thù ở trong các khu rừng rậm”. Sau khi tổng kết các hoạt động diệt cỏ của quân đội, Đô đốc Lemos lúc ấy đã kết luận: “Kết quả là các lực lượng của chúng ta đã có thêm khả năng hoàn thành nhiệm vụ của họ với những thương vong của người Mỹ và Việt Nam giảm xuống đáng kể”. Một trợ lý Bộ trưởng khác đã giải thích rằng “việc sử dụng chất diệt cỏ ở Việt Nam là phù hợp và chỉ có mục đích duy nhất là cứu sinh mạng người Mỹ và đồng minh chúng ta”.
Tranh cãi quanh chủ đề khai quang
Tuy nhiên, chương trình chất diệt cỏ (herbicidal program) đã gây ra nhiều tranh cãi, đó là điều mà những người ra quyết định đã công nhận ngay từ đầu. Nhưng bất chấp mọi lo ngại là bộ máy tuyên truyền Cộng sản sẽ đặc trưng hóa chương trình này như là một dạng chiến tranh vi trùng hay hóa học, các nhà vạch chính sách vẫn kiên trì theo đuổi quyết định của mình trong việc sử dụng chất diệt cỏ vì những lợi ích quân sự to lớn có thể có được. Họ cũng nhất quán kết luận rằng việc sử dụng chất diệt cỏ của quân đội ở Việt Nam có thể được phép thể theo những hiệp ước hiện hành và luật tập quán quốc tế. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Dean Rush đã tư vấn cho Tổng thống Kennedy vào năm 1961 rằng “việc sử dụng các chất khai quang không vi phạm bất cứ luật quốc tế nào liên quan đến chiến tranh hóa học và là một chiến thuật đã được công nhận”.
Quyết định sử dụng chất diệt cỏ quân sự trong chiến tranh Việt Nam đã được Tổng thống Ngô Đình Diệm ủng hộ nồng nhiệt. Ông ta cho rằng: “Ông ta biết Cộng sản đang ở đâu và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mỹ mãn”. Ngược lại với quan điểm của Ngô Đình Diệm, nhiều giới chức cấp cao có thế lực trong Bộ Ngoại giao Mỹ như Roger Hilsman (trước là Giám đốc Tình báo và Nghiên cứu ở Bộ Quốc phòng, hiện là giáo sư ở Trường đại học Columbia) và W. Averell Harriman phản đối quyết định của Tổng thống John F. Kennedy, vì họ cho rằng không có cách gì để biết được là Chiến dịch khai quang (Operation Ranch Hand) sẽ chỉ “khai quang”, hay đồng ruộng của nông dân sẽ bị tiêu huỷ. Cả hai ông đều lý giải rằng, nếu Mỹ dùng hoá chất trong cuộc chiến tranh Việt Nam, thì họ (Việt Nam) sẽ có lý do để tố cáo Hoa Kỳ là chủ nghĩa đế quốc dã man.
Sau khi đi khảo sát vấn đề này ở Nam Việt Nam về đã tuyên bố “Việc khai quang gây bất lợi về chính trị”. Mặc dầu vậy, chiến dịch khai quang vẫn được thực hiện. /Phạm Cao Dương, Ảnh hưởng của chất khai quang ở miền Nam Việt Nam/.
Ngày 6/12/1961
Kế hoạch khai quang dọc biên giới Việt-Miên-Lào
Cuối năm 1961, Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển Khả năng Tác chiến soạn thảo và đệ trình lên Bộ Tổng tham mưu (Quân lực VNCH) một kế hoạch khai quang rộng lớn dọc theo biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia với diện tích khoảng 31.250 dặm vuông (8.000.000 ha).
Trung tá Lữ Lan, Trưởng phòng BA/ Bộ TTM được chỉ định phụ trách việc soạn thảo Kế hoạch khai quang và phá hủy hoa màu của Việt Cộng (Defoliation and crop destruction programs). Việc soạn thảo kế hoạch này có sự tham gia của Bộ Tư lệnh Hành quân, Bộ Tư lệnh Không quân và BTL VTQSHK tại Việt Nam (MACV) Kế hoạch được hoàn tất vào ngày 6/12/1961…
Ngày 14/12/1961
Điện tín từ Bộ Ngoại giao gửi Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Chủ đề hoạt động khai quang.
Bộ Quốc phòng chuẩn bị cho các hoạt động khai quang giai đoạn đầu tiên khi nhận được kế hoạch từ CINCPAC và Washington. Hoạt động khai quang đầu tiên nhằm khai quang rừng rậm dọc đường và những con đường mòn được sử dụng bởi Quân lực VNCH cho các hoạt động chống nổi dậy. Bộ trưởng Quốc phòng đã tuyên bố rằng ông mong muốn các hoạt động này bắt đầu ngay sau khi nhận được kế hoạch Washington phê duyệt. Dự đoán báo chí yêu cầu giải thích kế hoạch khai quang dọc quốc lộ, chúng tôi đề nghị trả lời như sau: Ghi nhận du kích Cộng sản sử dụng lề đường bụi rậm để phục kích xe buýt dân sự, xe tải và xe khách, làm đường giao thông không an toàn cho việc đi lại hàng ngày của người dân của đất nước, Chính phủ VNCH đã yêu cầu Mỹ hỗ trợ trong chương trình khai quang rụng lá rừng rậm dọc hai bên đường của Việt Nam bằng các phương tiện của Mỹ. Giải phóng mặt bằng đường sẽ giúp Quân lực VNCH trong tuần tra đường để bảo vệ người dân và sẽ tạo điều kiện duy trì an ninh bình thường. Hoạt động liên quan đến việc sử dụng các hóa chất tương tự như những người Mỹ sử dụng hàng ngày cho việc trừ cỏ dại tại Hoa Kỳ. Khi mọi người biết từ kinh nghiệm của chúng tôi, các chất làm rụng lá giống 2,4-D không gây hại cho người, động vật hoặc đất. Chúng tôi tin rằng điều quan trọng để nhấn mạnh rằng hoạt động này, chúng tôi chỉ đơn thuần là khai quang rừng rậm dọc bên đường rằng chúng ta không tấn công bất cứ mục tiêu của con người, và rằng mục đích chính của nó là để ngăn chặn các lực lượng du kích từ việc sử dụng những khu rừng này để phục kích lực lượng VNCH. Chúng tôi cũng dự đoán rằng hoạt động chiến tranh tâm lý dưới mặt đất đặt trong mối liên hệ với các hoạt động khai quang thảm thực vật dọc đường giao thông này sẽ thiết lập một khuôn khổ trong đó chúng ta có thể chống lại sự bùng nổ tuyên truyền của cộng sản trong tương lai cho các giai đoạn khác của hoạt động khai quang rụng lá, tức là, khai quang chiến Khu D, biên giới giáp Campuchia và cuối cùng là phá hủy hoa màu bằng hóa chất.
(Quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963 , Tập I, Việt Nam , 1961: Tài liệu 321).
Ngày 4/12/1961
Quyết định chiến dịch Khai quang (Operation Ranch Hand) chính thức bắt đầu ngày 15 tháng 12. Trên 15.000 lít chất Hồng (Pink) và chất Xanh (Blue) đã sẵn sàng tại Tân Sơn Nhất, Sài Gòn.
Ngày 15/12/1961
Một chuyến tàu chở 416.360 lít chất Đỏ tía, còn gọi là chất Tím (Purple) và 185.465 lít chất Hồng (Pink) rời cảng Oakland, California tới Sài Gòn, Việt Nam.
Ngày 16/12/1961
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ McNamara tổ chức một Hội nghị ở Hawai với các Tư lệnh khu vực Thái Bình Dương để kiểm tra công tác chuẩn bị cho chiến dịch Ranch Hand và thực hiện các quyết định tiếp theo của chiến dịch /Philip W. Grove, Văn phòng BQP HK/.
Ngày 20/12/1961
Bộ Tổng Tham mưu (Quân lực VNCH) ban hành Sự vụ văn thư “Công tác diệt trừ cây cỏ” (thể thức, đề nghị, nhu cầu) trong đó có đoạn “Việt Nam đang xúc tiến nhận một số hoá chất viện trợ dùng để tiêu diệt bất kỳ loại thực vật nào trong các vùng đã rắc thuốc sau một thời gian từ 2 đến 15 ngày.
1/ Phân loại và mục tiêu công tác:
a) Công tác số 2 (2R): Phá hủy hoa màu, ruộng rẫy của Việt Cộng. Công tác này cần thực hiện trong thời gian gieo hạt cho đến khi gặt hái. Phương tiện sử dụng: trực thăng neo tại chỗ trên không để phun thuốc, cần bảo đảm an ninh tối thiểu cho trực thăng khi làm nhiệm vụ.
b) Công tác số 20 (20T và 20P): Tiêu diệt mọi thứ cây cối để khai quang các mật khu, chiến khu của Việt Cộng cùng các vùng rậm rạp hay trú ngụ; mở các hành lang trống địa trên các đường giao liên Việt Cộng và dọc theo biên giới Việt Nam để cản trở sự đi lại của Việt Cộng bằng phi cơ khu trục tuần thám hoặc bằng các đơn vị tuần tiễu hoặc đóng đồn; khai quang các vùng rậm rạp xung quanh các đồn bốt, các yếu khu, yếu điểm, các trục chiến lược hiểm yếu quân ta (nguỵ) vẫn qua lại mà địch có thể ẩn nấp để bất ngờ tấn công ta.
2/ Phương tiện sử dụng:
Một số phương tiện chính:
1/ Máy bay vận tải các loại: C.123, C.47, Dacota, Canbera... lắp thiết bị phun FIDAL (Fixed Wing Insecticide Dispersal Apparatus Liquid);
2/ Trực thăng H.34, HE.l, HU.1A, HU. 1B lắp thiết bị phun HIDAL (Helicopter Insecticide Dispersal Apparatus Liquid) hoặc AGAVENCO (Agricultural Aviation Engineering Company);
3/ Máy phun hoá chất PDDA ( Power Driver Decontaminating Apparatus) nhãn hiệu” “Đầu Trâu” (Buffalo Turbine) lắp đặt trên các phương tiện vận tải thuỷ (ca nô, thuyền), bộ (ôtô, xe lửa).
4/ Bình phun tay (Hand sprayer nhãn hiệu Hudson).
Ngày 20/12/1961
SỰ VỤ VĂN THƯ
Số 1785/P3/TTM/BQP (QĐVNCH)
Công tác diệt trừ cây cỏ (Thể thức đề nghị, nhu cầu)
I/ Đại cương:
Việt Nam Cộng hoà đang xúc tiến nhận một số hoá chất viện trợ dùng để tiêu diệt bất kỳ loại thực vật nào trong các vùng sẽ rắc thuốc sau một thời gian từ 2 đến 15 ngày.
II/ Phân loại và mục tiêu công tác.
Công tác số 2.
- 2.R: Phá huỷ hoa màu, ruộng rẫy của Việt Cộng. Công tác này cần thực hiện trong thời kỳ gieo giống cho đến khi gặt hái. Điểm đặc biệt công tác rắc thuốc cần phải chính xác nên thường dùng trực thăng bay thấp, neo tại chỗ trên không để phun thuốc, nên cần có sự an ninh tối thiểu cho phi cơ.
Công tác số 20:
- Tiêu diệt mọi thứ cây cỏ bị khai quang:
- 20.T: Các Chiến khu, Mật khu của Việt Cộng cùng các vùng rậm rạp chúng thường trú ngụ;
- 20.T: Mở các hành lang trống địa trên các đường giao liên Việt Cộng và dọc theo biên giới Việt Nam để cản trở sự đi lại của chúng bằng phi cơ khu trục tuần thám hoặc bằng các đơn vị tuần tiễu hoặc đóng đồn.
- 20.P: Khai quang các vùng rậm rạp bao quanh các đồn bốt, các yếu khu, yếu điểm (khu căn cứ, địa điểm trọng yếu), các trục chiến lược hiểm yếu ta vẫn qua lại mà địch có thể ẩn nấp để bất ngờ tấn công ta.
III/ Phương tiện và thể thức sử dụng
Những phương tiện chính:
Phi cơ (vận tải, trực thăng, khu trục, thám thính);
Xe kéo lắp thiết bị phun Buffalo Turbine (có thể đặt trên xe tải, ca nô, tàu hoả v.v...);
Nhân viên và dụng cụ mang vai (Hand Sprayer - bình phun đeo lưng).
- Đối với những khu vực rộng lớn tối thiểu 1.000 x 5.000m sẽ dùng phi cơ bay nhanh, thường dành cho việc mở các hành lang trống địa hoặc khai quang rừng;
- Đối với khu vực nhỏ hẹp (vài km2) sử dụng phi cơ trực thăng hoặc phi cơ quan sát, thường dành cho việc tiêu huỷ ruộng rẫy của Việt Cộng;
- Đối với khu vực cần chính xác tối đa dùng trực thăng hay cơ giới hoặc nhân viên đi bộ, thường dành cho việc khai quang trục giao thông, đồn bốt, yếu khu, yếu điểm.v.v.
- Tại các vùng rừng rậm, sau khi phun rải chất khai quang cho cây chết khô (thường phải làm 3 lần cho các tầng cây từ cao đến thấp và xuống đến bụi cỏ) sẽ dùng phương pháp đốt (napalm, xăng) để biến khu vực khai quang thành trống địa.
Ngày 28/12/1961
Điện tín từ Tư lệnh Thái Bình Dương (Felt), gửi Tư lệnh Bộ Tư lệnh viện trợ Quân sự tại Việt Nam - McGarr.
Chủ đề: Hoạt động chất làm rụng lá
1. Để đáp ứng với quyết định tại cuộc họp ngày 16 tháng 12, một kế hoạch sử dụng chất làm rụng lá là cần thiết, trong đó đặt ra mục tiêu rõ ràng của các hoạt động và các khu vực cụ thể cho các hoạt động ban đầu. Khái niệm của chúng tôi là một hoạt động sử dụng chất làm rụng lá nên được phát triển với mục đích sau đây;
- Để hỗ trợ các hoạt động chống nổi dậy;
- Tăng cường khả năng quan sát trên không của khu vực được lựa chọn trong lãnh thổ do Việt Cộng kiểm soát,
- Để hỗ trợ các trận địa hỏa lực và tăng cường tầm quan sát; để làm giảm khả năng phục kích.
2. Các hoạt động sử dụng chất khai quang ban đầu nên được thiết kế với mục đích ngắn hạn, nhưng với mục tiêu cụ thể để cung cấp cho chúng ta một cơ hội để đánh giá sự thành công của nó và do đó giới hạn xác định tính hợp lý các hoạt động này trong tương lai.
3. Với mục đích ngắn hạn, tôi đã phát triển kế hoạch sau đây cho mục tiêu hạn chế ban đầu hoạt động khai quang:
1. Tình hình: Các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang chuẩn bị để thực hiện một chiến dịch để loại bỏ Việt cộng ở một số tỉnh trên toàn miền Nam Việt Nam. Để hỗ trợ các hoạt động chống nổi dậy này, hoạt động khai quang đã được thực hiện để loại bỏ thảm thực vật dọc theo các đường giao thông thủy bộ huyết mạch.
2. Nhiệm vụ: Để xóa thảm thực vật đến một khoảng cách 200 mét ở cả hai bên của đường giao thông chính bằng các phương tiện phun rải trên không và mặt đất.
A. Khái niệm:
(1) Ưu tiên cho khai quang thảm thực vật dọc theo các đường giao thông liên lạc giữa Sài Gòn và các thành phố lớn bao gồm đường giao thông ngoại vi đến Chiến khu D. Hoạt động khai quang sẽ được tiến hành bởi Mỹ và VNCH, sử dụng phương tiện phun rải trên không (C-123, trực thăng) và dưới mặt đất (Buffalo turbine, Hand sprayer).
(2) Không quân Hoa Kỳ với máy bay vận tải C-123 gắn thiết bị phun rải trên không sẽ xuất phát từ sân bay Tân Sơn Nhất.
(3) Các nhiệm vụ cụ thể, phương pháp phun và thời gian thực hiện sẽ được xác định bởi CHMAAG dựa trên nhu cầu của chỉ huy chịu trách nhiệm về việc thực hiện các hoạt động chống nổi dậy.
(4) Giai đoạn này của các hoạt động sẽ không bao gồm việc phá hủy hoa màu, và hoạt động khai quang sẽ được thực hiện để đảm bảo rằng khu vực đó đều tránh được. Ngoài ra, các hoạt động tâm lý chiến được thiết kế để phủ nhận các tài liệu tuyên truyền cộng sản cũng sẽ được tiến hành song song. Các hoạt động này sẽ cung cấp cho một lời giải thích về việc sử dụng chất làm rụng lá như là một liên kết phi quân sự để cải thiện và duy trì mạng lưới giao thông.
(Quan hệ đối ngoại Hoa Kỳ, 1961-1963 , Tập I, Việt Nam , 1961 : Tài liệu 343. )
(Còn nữa)
Bình luận