Từ ngày 3 đến 7/2/1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã tuyên bố trong Chánh cương đầu tiên của mình: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Chánh cương vắn tắt khẳng định đế quốc và phong kiến đều là đối tượng phải đánh đổ trong cách mạng dân tộc, dân chủ. Theo đó, quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn nhất quán, kiên định với chủ trương, đường lối cách mạng mà Chánh cương đã đề ra; đồng thời bám sát tình hình thế giới, trong nước để đề ra chủ trương, đường lối phù hợp, chuẩn bị lực lượng tiến tới Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.

Sau Hội nghị thành lập, Đảng ta đã chủ chương tuyển chọn thanh niên yêu nước, đẩy mạnh bồi dưỡng lý luận cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin. Nhiều thanh niên ưu tú được đưa đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế cộng sản. Những cán bộ cốt cán đó được phân về các xứ ủy Bắc- Trung -Nam để xây dựng, phát triển tổ chức cơ sở đảng ở khắp các địa phương trong cả nước, làm nòng cốt để xây dựng lực lượng chính trị cho cách mạng. Cùng với đó, Đảng đã xây dựng, phát triển các tổ chức quần chúng, như: Hội cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc,… Nhờ vậy, phong trào cách mạng đã diễn ra rộng khắp, nhiều cuộc bãi công, biểu tình, bãi thị, bãi khoá nổ ra ở các nhà máy, hầm mỏ,… như: Công ty than Hòn Gai, công nhân Xe lửa Trường Thi (7/1937)...
Chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra, tình hình thế giới, trong nước có nhiều biến động. Tháng 11/1939, Đảng ta thành lập "Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương" với mục đích: tập hợp mọi lực lượng yêu nước để đấu tranh chống lại ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời, Đảng ta tổ chức liên tiếp các hội nghị: Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939), Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11/1940) và đặc biệt là Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Tại các hội nghị, Đảng ta đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng; nhất quán xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Tại Hội nghị Trung ương 8, Đảng ta xác định rõ hơn, cụ thể hơn việc chuẩn bị lực lượng; thành lập các tổ chức vũ trang và nửa vũ trang để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, tiến tới Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước.
Cũng theo quyết định của Hội nghị Trung ương 8, Đảng ta đã thành lập Mặt trận Việt Minh (thay Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương). Mặt trận Việt Minh đã công bố Tuyên ngôn và Chương trình 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh để tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc đứng lên giành độc lập dân tộc. Tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh nêu rõ: mục tiêu đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc Việt Nam, xóa bỏ ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ, phú cường.
Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố, bọn đế quốc, phong kiến không bao giờ tự giác rời bỏ vũ đài chính trị. Vì thế, Đảng ta xác định để giành được chính quyền cách mạng, phải có lực lượng vũ trang mạnh làm nòng cốt trong đấu tranh quân sự. Đầu những năm 1930, lực lượng vũ trang của cách mạng còn nhỏ lẻ, các đội tự vệ chủ yếu được thành lập tự phát trong các nhà máy, đồn điền. Từ năm 1940, nhiều nơi ở Nam Kỳ đã tổ chức các tổ, tiểu đội du kích, như: Hóc Môn (Gia Định), Cần Giuộc, Vĩnh Liên (Vĩnh Long), Mỹ Tho, Đội du kích Ba Tơ ở Quảng Ngãi; Tháng 7/1941 Đội du kích Bắc Sơn ra đời tại khu rừng Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn. Các đội du kích đó đã trở thành chỗ giữa vững chắc cho phong trào quần chúng cách mạng, hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh chính trị, cũng như làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở các địa phương. Đặc biệt, sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (ngày 22/12/1944), tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo (nay thuộc xã Tam Kim, tỉnh Cao Bằng). Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ta - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Như vậy, từ những đội du kích đầu tiên, đến đầu năm 1945 ta đã có một quân đội chính quy và lực lượng dân quân rộng khắp ở các địa phương. Bên cạnh đó là lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo. Họ không chỉ phục vụ kháng chiến, mà còn trực tiếp tham gia chiến đấu, sẵn sàng cho Tổng khởi nghĩa.
Thực tế, cách mạng Việt Nam đi từ không đến có, từ yếu đến mạnh, vì thế, trong quá trình phát triển lực lượng, Đảng ta đã xây dựng các căn cứ địa làm nơi đứng chân và là chỗ dựa cho lực lượng vũ trang để chuẩn bị mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa. Các căn cứ địa, như: Việt Bắc, Trung-Nam Ngãi, Trần Hưng Đạo (Đông Triều), Chiến khu Đ (Đông nam bộ), Đồng Tháp Mười, U Minh, Dương Minh Châu… đã thể hiện rõ vai trò, là nơi đặt các cơ quan chỉ đạo, có các nhà lãnh đạo, chỉ huy đưa ra các quyết sách quan trọng; nơi lực lượng vũ trang tập trung, huấn luyện và tổ chức chuẩn bị chiến đấu; là bàn đạp để các lực lượng của ta tiến công địch... Đó còn là nơi cung cấp nguồn lực về người, về vật chất, lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác cho cuộc kháng chiến. Đặc biệt, Căn cứ địa Việt Bắc, là căn cứ địa quan trọng nhất của cách mạng trong kháng chiến chống Pháp; là "đầu não", từ đây Đảng ta chỉ đạo cuộc kháng chiến trong cả nước. Đầu năm 1945, căn cứ địa Việt bắc được mở rộng, gồm các tỉnh mới giải phóng là: Cao Bằng - Lạng Sơn - Hà Giang - Tuyên Quang - Thái Nguyên.
Trên cơ sở công tác chuẩn bị hết sức “toàn diện và chu đáo”, Đảng ta luôn theo dõi sát diễn biến của Chiến tranh Thế giới thứ hai, tình hình thế giới và trong nước để tranh thủ thời cơ phát động Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân./.
Nguyễn Mạnh
Bình luận