• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – DẤU MỐC LỊCH SỬ QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI

Đầu thế kỷ XX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân ta sống trong cảnh nô lệ, lầm than. Trong bối cảnh đó, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra; tuy nhiên các phong trào đó đều thất bại vì thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn.

Cách mạng Việt Nam bước sang trang mới từ khi Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước theo chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền bá vào Việt Nam. Đặc biệt, ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (Hồng Kông – Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta: lần đầu tiên, giai cấp công nhân Việt Nam có chính đảng tiên phong lãnh đạo cách mạng.

Từ đây, dân tộc ta có đường lối cách mạng đúng đắn “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” – ngọn đuốc soi đường cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trải qua 95 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành 13 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc, mỗi kỳ là một mốc son lịch sử, phản ánh trí tuệ, bản lĩnh và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng.

Đại hội I (từ ngày 27 đến 31-3-1935, tại Ma Cao, Trung Quốc)

Sau thời kỳ bị khủng bố, đàn áp (1931–1934), hệ thống tổ chức của Đảng bị tổn thất nặng nề; Đại hội lần thứ I của Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm là khôi phục, củng cố, phát triển tổ chức Đảng, mở rộng mặt trận đoàn kết và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Đại hội gồm: 13 đại biểu chính thức, 3 đại biểu dự khuyết. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương đầu tiên; đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội II (từ ngày 11 đến 19-2-1951, tại Tuyên Quang)

Đại hội diễn ra trong giai đoạn quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đại hội quyết định đưa các hoạt động của Đảng ra công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội thông qua Chính cương, Điều lệ Đảng mới; xác định hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết. Đại hội bầu đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

Đại hội III (từ ngày 5 đến 10-9-1960, tại Hà Nội)

Đại hội đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược đó trong quá trình thực hiện. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội IV (từ ngày 14 đến 20-12-1976, tại Hà Nội)

Sau thắng lợi vĩ đại của Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội IV là Đại hội thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam; xác định nhiệm vụ trung tâm là xây dựng đất nước trong thời kỳ mới (trọng tâm là xây dựng nhà nước XHCN, khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng – an ninh). Đây là Đại hội mở đầu thời kỳ cả nước đi lên CNXH, tràn đầy niềm tin và khí thế mới. Tham dự Đại hội có 1.008 đại biểu. Đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội V (từ ngày 27 đến 31-3-1982, tại Hà Nội)

Đại hội tiến hành trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh và cơ chế quản lý tập trung, bao cấp. Đại hội đã tổng kết 5 năm đầu sau thống nhất, chỉ rõ những hạn chế trong lãnh đạo, quản lý; đồng thời nhấn mạnh cần phát huy dân chủ, đổi mới tư duy kinh tế, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Đại hội chủ trương “lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu”, đặt nền móng cho bước chuyển đổi tư duy kinh tế – xã hội sau này. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu; đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội VI (từ ngày 15 đến 18-12-1986, tại Hà Nội)

Đây là Đại hội của công cuộc đổi mới, đánh dấu bước phát triển đặc biệt về đổi mới tư duy trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đại hội nhìn thẳng vào sự thật, chỉ rõ những yếu kém của cơ chế bao cấp, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ đây, đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới – mở đường cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tham dự Đại hội có 1.129 đại biểu; đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội VII (từ ngày 24 đến 27-6-1991, tại Hà Nội)

Diễn ra trong bối cảnh hệ thống XHCN khủng hoảng, Đại hội VII thể hiện bản lĩnh kiên định của Đảng ta, khẳng định đi lên CNXH là lựa chọn đúng đắn của nhân dân Việt Nam. Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đại hội đưa tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng chính thức của Đảng ta và cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho Đảng. Tham dự Đại hội có 1.176 đại biểu; đồng chí Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội VIII (từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hà Nội)

Đại hội chủ trương tiếp tục sự nghiệp đổi mới, khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn; đồng thời đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là bước phát triển về tư duy lý luận của Đảng trong thời kỳ hội nhập. Tham dự Đại hội có 1.198 đại biểu; đồng chí Đỗ Mười tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội IX (từ ngày 19 đến 22-4-2001, tại Hà Nội)

Đại hội IX thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001–2010. Đại hội tiếp tục khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp phát triển với độc lập tự chủ. Đây là Đại hội thể hiện tư duy hội nhập chủ động, sáng tạo của Đảng trong thời kỳ toàn cầu hóa. Tham dự Đại hội có 1.168 đại biểu; đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội X (từ ngày 18 đến 25-4-2006, tại Hà Nội)

Đại hội đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của tư duy hội nhập quốc tế sâu rộng (Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới). Đồng thời, khẳng định mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, nhấn mạnh nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tham dự Đại hội có 1.176 đại biểu; đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội XI (từ ngày 12 đến 19-1-2011, tại Hà Nội)

Đại hội thông qua Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011–2020. Đại hội khẳng định thành tựu sau 25 năm đổi mới; đồng thời xác định tiếp tục con đường xây dựng CNXH vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đại hội nêu cao yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, gắn tăng trưởng kinh tế với xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Tham dự Đại hội có 1.377 đại biểu; đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội XII (từ ngày 20 đến 28-1-2016, tại Hà Nội)

Đại hội xác định phương hướng: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đề ra yêu cầu phát triển nhanh, bền vững, hiện đại, với tinh thần “Đoàn kết – Dân chủ – Kỷ cương – Đổi mới – Phát triển”. Tham dự Đại hội có 1.510 đại biểu; đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Đại hội XIII (từ ngày 25-1 đến 1-2-2021, tại Hà Nội)

Đây là Đại hội của khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đại hội đề ra Chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045, xác định mục tiêu: “Đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Ba đột phá chiến lược được Đại hội xác định là: thể chế, nguồn nhân lực và hạ tầng. Tham dự Đại hội có 1.587 đại biểu; đồng chí Nguyễn Phú Trọng tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội lần thứ 13 của Đảng

*

Hướng tới Đại hội XIV của Đảng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức thi đua, lập nhiều thành tích chào mừng Đại hội – sự kiện chính trị trọng đại, mở ra giai đoạn phát triển mới của đất nước. Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV xác định mục tiêu tổng quát: “Phát huy ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phấn đấu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Định hướng chiến lược của Đại hội nhấn mạnh: Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy nguồn lực con người, khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo; thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, chú trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững độc lập, tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đó chính là tầm nhìn chiến lược và khát vọng lớn lao của Đảng và nhân dân ta trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc – kỷ nguyên của đổi mới sáng tạo, hội nhập sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững. Đại hội XIV sẽ là bước ngoặt mở ra giai đoạn phát triển mới, đưa Việt Nam tiến vững chắc trên con đường hiện thực hóa mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xứng đáng với niềm tin yêu và kỳ vọng của nhân dân cả nước./.

Mạnh Dũng

 

 

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác

    Thoát nghèo từ vốn vay ưu đãi

    Thoát nghèo từ vốn vay ưu đãi

    Từ hộ nghèo, với quyết tâm thay đổi số phận, để cho con có cuộc sống tốt hơn, bà Châu Kim Liễu (55 tuổi) ở khóm 4, phường Phú Lợi (TP Cần Thơ) đã mạnh dạn vay vốn NHCSXH để khởi nghiệp, với số vốn ban đầu chỉ 7 triệu đồng, gia đình ...
    Khi vốn chính sách đến đúng nơi cần

    Khi vốn chính sách đến đúng nơi cần

    Sau khi hợp nhất đơn vị hành chính, hoạt động tín dụng chính sách ở tỉnh An Giang được triển khai hiệu quả, giúp nguồn vốn ưu đãi đến nhanh và tiếp cận đúng đối tượng. Từ vùng biên đến miền biển, những đồng vốn nghĩa ...