• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM - "TOÀN DÂN TÍCH CỰC ĐÓNG GÓP Ý KIẾN VÀO DỰ THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ TẠI ĐẠI HỘI XIV CỦA ĐẢNG"

Đóng góp ý kiến vào Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII trình Đại hội XIVcủa Đảng

Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của Nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh của Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng là văn kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tổng kết sâu sắc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, đồng thời xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Trong đó, Mục XII “Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của Nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh của Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc” thể hiện sâu sắc tư tưởng “Dân là gốc”, kế thừa và phát triển những quan điểm lớn của Đảng ta về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nội dung này tiếp tục khẳng định rõ nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc phát triển; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc – nhân tố quyết định để đất nước phát triển bền vững, phồn vinh, hạnh phúc. Đây cũng là cơ sở để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ trong việc quy tụ, đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội.

II. NHỮNG ĐIỂM MỚI SO VỚI VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII

Thứ nhất, tư tưởng “dân là gốc” được thể hiện cụ thể và sâu sắc hơn. Nếu như Đại hội XIII nhấn mạnh “phát huy quyền làm chủ của nhân dân”, thì Dự thảo XIV khẳng định “nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới”, coi hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân là thước đo của mọi chính sách. Đây là sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động, từ chủ trương đến thực tiễn quản trị đất nước.

Thứ hai, Dự thảo XIV nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện cơ chế, chính sách để thực thi quyền làm chủ của nhân dân, nêu rõ phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Hai yếu tố “dân giám sát” và “dân thụ hưởng” được bổ sung so với trước, thể hiện sự toàn diện, thực chất hơn của dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Dự thảo XIV lần đầu tiên xây dựng tầm nhìn dài hạn đến năm 2045, nêu rõ định hướng “Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc đến năm 2035, tầm nhìn 2045”. Cách tiếp cận này mang tính chiến lược, phản ánh yêu cầu củng cố liên minh giai cấp công nhân – nông dân – trí thức, đồng thời mở rộng khối đoàn kết tới doanh nhân, phụ nữ, thanh niên, văn nghệ sĩ, người Việt Nam ở nước ngoài và các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước.

Thứ tư, Dự thảo lần này đặc biệt coi trọng việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội như Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, cùng các hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ. Đây là những cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, góp phần quan trọng trong việc củng cố niềm tin, tăng cường đồng thuận xã hội và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc.

Thứ năm, Dự thảo cũng làm rõ định hướng xây dựng đội ngũ giai cấp và tầng lớp xã hội trong thời kỳ mới – công nhân hiện đại, nông dân văn minh, trí thức sáng tạo, doanh nhân yêu nước, phụ nữ thời đại mới, thanh niên có hoài bão và khát vọng cống hiến – thể hiện rõ định hướng phát triển con người toàn diện, gắn kết giữa cá nhân – cộng đồng – Tổ quốc.

III. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP VÀ KIẾN NGHỊ

1. Dự thảo cần làm rõ hơn cơ chế để nhân dân thật sự là chủ thể trong mọi quyết sách.

Đề nghị Dự thảo bổ sung nội dung cụ thể hóa cơ chế lấy ý kiến, phản biện, giám sát của nhân dân đối với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường trách nhiệm giải trình công khai của các cơ quan Đảng, Nhà nước trước Nhân dân. Cần phát triển các nền tảng số để người dân tham gia trực tuyến vào quản lý, góp ý, giám sát xã hội – hình thức dân chủ mới, phù hợp với thời đại chuyển đổi số.

2. Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ.

Đề nghị nhấn mạnh hơn việc tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động và tính chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ. Cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức này trong việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phản biện chính sách, giám sát thực thi pháp luật và tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối  của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hội có năng lực, bản lĩnh, tâm huyết – để các tổ chức thực sự là “cầu nối tin cậy giữa Đảng với Nhân dân”.

3. Xây dựng và phát triển các giai tầng xã hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đề nghị nhấn mạnh hơn chính sách phát triển giai cấp công nhân hiện đại, nông dân văn minh, trí thức sáng tạo, doanh nhân yêu nước, phụ nữ thời đại mới, thanh niên khát vọng cống hiến vì đất nước. Cần coi trọng xây dựng văn hóa đoàn kết, đồng thuận, tôn trọng lẫn nhau giữa các tầng lớp xã hội – nền tảng tinh thần của sức mạnh quốc gia và là điểm tựa để các tổ chức hội phát huy vai trò tập hợp, đoàn kết, hướng dẫn hội viên cùng góp sức phát triển đất nước.

4. Đổi mới công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống và ý thức công dân.


Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, quyền phải gắn với trách nhiệm. Cần tăng cường giáo dục pháp luật, đạo đức công dân trong hệ thống giáo dục; phát động phong trào “Sống và làm việc có trách nhiệm vì cộng đồng”, xây dựng con người Việt Nam thời đại mới: yêu nước, nhân ái, trung thực, sáng tạo, khát vọng vươn lên.

5. Phát huy nguồn lực kiều bào, người Việt Nam ở nước ngoài.
Cần có chính sách khuyến khích kiều bào đầu tư, chuyển giao tri thức, công nghệ, kết nối sáng tạo; bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người Việt ở nước ngoài, hỗ trợ hội nhập xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc – qua đó góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc của người Việt Nam trên toàn thế giới.

6. Xây dựng Chiến lược Đại đoàn kết toàn dân tộc đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045.

Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề đặc biệt quan trọng, liên quan đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Vì thế, Xây dựng Chiến lược Đại đoàn kết toàn dân tộc đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045 là rất cần thiết. Chiến lược đó nên đặt ra chỉ tiêu cụ thể về mức độ tham gia của người dân vào quản lý xã hội, chỉ số hài lòng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; đồng thời xác định vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, trong đó có các tổ chức hội trong việc hiện thực hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa.

*

Phần XII trong Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng thể hiện bước phát triển mới trong tư duy của Đảng về nhân dân, dân chủ và đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ “phát huy dân chủ” trong Văn kiện Đại hội XIII đến “bảo đảm quyền làm chủ thực chất của nhân dân” trong Dự thảo XIV là sự chuyển biến sâu sắc – thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong kỷ nguyên mới.

Phát huy vai trò chủ thể của nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, chăm lo hạnh phúc, đời sống nhân dân; đồng thời tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ – chính là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phồn vinh, hạnh phúc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”./.

Mạnh Dũng

 

 

 

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác