Tại thành phố Hồ Chí Minh, tính đến ngày 31/5/2018, tổng số NKT trên địa bàn thành phố là 56.644 người, trong đó 51.497 người đã xác định mức độ khuyết tật. Gồm 8.272 NKT đặc biệt nặng, 34.788 NKT nặng và 13.584 NKT nhẹ.
Được biết, hiện nay UBND thành phố Hồ Chí Minh đang tiếp tục đẩy mạnh triển khai và thực hiện nhiều chính sách đảm bảo an sinh xã hội, nhất là đối với người nghèo, NKT. Cụ thể, từ năm 2018 đến năm 2020 UBND thành phố ban hành kế hoạch thực hiện công tác chăm sóc NKT, phấn đấu đến năm 2020 đạt 100% số trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật; 60% trẻ em khuyết tật được cải thiện chức năng, tăng cường năng lực; 100% cơ sở y tế tuyến thành phố, 80% cơ sở y tế tuyến quận - huyện có năng lực thực hiện phát hiện sớm các khiếm khuyết ở trẻ sơ sinh và sàng lọc khuyết tật trước sinh; 100% bệnh viện quận - huyện có tổ chức phục hồi chức năng (PHCN)… Ngoài ra, TP cũng sẽ đầu tư, mở rộng, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho bệnh viện PHCN - Điều trị bệnh nghề nghiệp cũng như khoa Vật lý trị liệu - PHCN trong các bệnh viện đa khoa, đầu tư trang thiết bị, vật tư y tế…
.jpg)
Qua nhiều năm thực hiện chính sách, thành phố đã hình thành hệ thống các cơ sở PHCN, tuy nhiên khả năng và mức độ tiếp cận của NKT với các dịch vụ PHCN, chăm sóc sức khỏe đặc biệt cho NKT còn hạn chế. Công tác PHCN cho NKT còn nhiều khó khăn bất cập do nguồn lực phục vụ còn hạn chế, cơ sở vật chất chật hẹp, thiếu trang thiết bị hiện đại, nhân sự phụ trách công tác PHCN còn thiếu.
.jpg)
Về hệ thống cơ sở PHCN, thành phố có Bệnh viện PHCN - Điều trị bệnh nghề nghiệp và Khoa PHCN tại các bệnh viện, trong đó khối Bệnh viện thành phố có 5/10 bệnh viện đa khoa thành lập khoa PHCN, 10/22 bệnh viện chuyên khoa có khoa PHCN; khối bệnh viện quận, huyện có 7/23 bệnh viện thành lập khoa PHCN - vật lý trị liệu và khối bệnh viện ngoài công lập có 3/18 bệnh viện đa khoa có khoa PHCN cùng với 49 cơ sở phòng khám chuyên khoa PHCN của tư nhân. Chăm lo sức khỏe trước đến việc cải thiện đời sống cho NKT là hai yếu tố cơ bản và song song.
Nhìn chung, công tác dạy nghề và tạo việc làm cho NKT trên địa bàn thành phố hiện nay có quan tâm, nhưng chưa đều khắp, còn nhiều bất cập do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan.
Việt Nam đã ban hành Luật Người khuyết tật, phê duyệt Công ước về quyền NKT. Bên cạnh đó, ngày 1/11/2019, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 39 tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác NKT, yêu cầu tạo điều kiện thuận lợi để NKT tiếp cận các chính sách giáo dục nghề, việc làm tín dụng. Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019 đã dành một mục riêng, với 3 điều quy định về chính sách của Nhà nước đối với lao động là NKT, sử dụng lao động là NKT và những hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng lao động là NKT. Luật Người khuyết tật cũng có Chương 5, quy định về dạy nghề và việc làm đối với NKT.
Ngày 5/8/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1190 phê duyệt Chương trình trợ giúp cho NKT giai đoạn 2021-2030. Với mục tiêu đặt ra, đến năm 2030 có 300.000 NKT có nhu cầu và đủ điều kiện sẽ được hỗ trợ đào tạo nghề tạo việc làm, hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho 6 cơ sở giáo dục nghề nghiệp chuyên biệt để đào tạo nghề cho NKT tại sáu vùng trong cả nước và cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo nghề cho NKT. Phấn đấu hỗ trợ 100% NKT có nhu cầu và đủ điều kiện sẽ được hỗ trợ vay vốn với lãi suất ưu đãi để tạo sinh kế, tạo việc làm, học nghề, được tập huấn nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, qua đó giúp họ vươn lên, thoát nghèo.
Tôi đi Nhật Bản tham quan tìm hiểu xem chăm sóc xã hội của Chính phủ và NKT Chính phủ của Nhật Bản quy định các công ty phải nhận từ 2 đến 4% NKT vào làm việc, như vậy thì Chính phủ mới chấp nhận cho Công ty hoạt động dĩ nhiên phương tiện làm việc bảo đảm cho NKT làm việc chu đáo vì có kỹ thuật cao.
Tuy nhiên, trên thực tế công tác dạy nghề và tạo việc làm cho NKT gặp nhiều khó khăn, thách thức. Số lượng NKT được học nghề, có việc làm còn hạn chế; thiếu chương trình, giáo viên, tư vấn nghề và tạo việc làm cho NKT; nguồn lực và chính sách vẫn chưa phù hợp; trình độ học vấn của NKT thấp cộng với tâm lý tự ti, mặc cảm của bản thân và gia đình cũng là rào cản, hạn chế nhiều cơ hội tiếp cận việc làm, nghề nghiệp của họ. Cùng với đó, nhận thức của các cấp chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư trong việc tạo cơ hội việc làm cho NKT còn hạn chế.
Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc chưa thật sự hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp chưa chú ý trong việc tuyển dụng NKT vào làm việc do các quy định cấm sử dụng lao động khuyết tật suy giảm khả năng lao động làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, việc nặng nhọc độc hại, nguy hiểm. Lao động khuyết tật học một số nghề ra chưa tìm được việc làm, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được hoặc khó tiêu thụ. Thực tế này đòi hỏi phải có những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế chính sách về việc làm dành cho NKT cũng như các giải pháp trong việc thực hiện những quy định, chính sách.
Trong Luật Người khuyết tật đã có quy định là các tổ chức, cá nhân tùy theo điều kiện của mình, bố trí điều kiện làm việc và điều kiện làm việc cho NKT, nhưng thực tế, từ khi Luật ra đời đến nay, chưa có những hướng dẫn cụ thể hay mô hình nào để doanh nghiệp có thể học tập cải thiện điều kiện nơi làm việc cho NKT. Cùng lắm chỉ thành lập được một vài trung tâm dạy nghề như Hóc Môn, các cơ sở sản xuất tư nhân chế tạo lắp ráp xe lăn, phương tiện đi lại như Kiến Tường thì có thu nhận NKT vào làm việc; còn đa phần NKT tự lực mưu sinh, kiếm sống bằng những công việc phổ thông như bán vé số, bán hàng rong, kết cườm, thêu, vẽ hoặc may mặc. Một số được gia đình quan tâm hướng nghiệp, học nghề, hoặc lên đến chương trình đại học, sau đại học là do một phần nỗ lực của bản thân và gia đình, sự quan tâm hỗ trợ hoặc sự kết nối với nhà tài trợ bên ngoài chưa được lan tỏa, rộng khắp, việc tiếp cận nguồn vốn hạn chế...
Tôi đề nghị cần phải có những giải pháp để hỗ trợ NKT cải thiện đời sống hơn so với thực trạng hiện nay:
Thứ nhất, cần có sự quan tâm rõ nét hơn đối với tình hình NKT trên địa bàn thành phố, thống kê, rà soát tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng, việc làm. Phân loại theo nhóm; tình hình thể chất sức khỏe, thấu cảm những tâm tư nguyện vọng chung nhất của NKT, họ cần và muốn cùng với sự nỗ lực vượt khó khi có cơ hội đến với họ.
Thứ hai, phối hợp với cơ quan ban ngành, đoàn thể thăm, động viên, khích lệ và kịp thời hỗ trợ để NKT có niềm tin, chỗ dựa vững chắc, tiếp sức cho họ về vốn không hoàn, không lãi ban đầu, từ đó tạo cơ hội cho họ vươn lên hòa nhập cộng đồng xã hội.
Thứ ba, đối với việc làm xem xét phù hợp sức khỏe, không phân biệt đối xử, cơ cấu tạo việc làm tại địa phương cho NKT có trình độ học vấn, tin tưởng họ, yêu thương họ, không quan trọng ngoại hình hay hình thức, cần nhìn thấu cái tâm, cái tầm của NKT để sử dụng lao động.
Thứ tư, khuyến khích gia đình, bản thân tự lực vượt khó, đồng thời cũng tạo cơ hội giới thiệu việc làm, tiếp cận nguồn vốn sinh kế đạt chất lượng, phù hợp tâm tư nguyện vọng môi trường sống của NKT.
Thứ năm, đối với NKT nặng cần nâng cao chính sách hỗ trợ hàng tháng để giúp cho họ được cải thiện hơn, nâng cao việc chăm sóc, sức khỏe y tế, dụng cụ tập vật lý trị liệu, phương tiện đi lại...
Thứ sáu, củng cố xây dựng và nâng cao hiệu quả các trung tâm nuôi dưỡng, dạy nghề và tạo việc làm cho NKT không nơi nương tựa để giúp cho họ có nơi để sinh sống, phát triển... Hội NNCĐDC/dioxin thành phố Hồ Chí Minh cũng đang tiến hành xây Làng Cam ở xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn để chăm lo cho NNCĐDC có hoàn cảnh như NKT.
Trên đây là một số ý kiến - có thể xem là những giải pháp theo quan điểm chủ quan của cá nhân, những mong được các cấp các ngành, các cơ quan chức năng bổ sung để hoàn thiện chính sách tốt và giải pháp tốt cho NKT, để cho họ có điều kiện làm việc, có cuộc sống cải thiện phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và xã hội hiện nay.
TP Hồ Chí Minh, ngày 16/5/2023
Thiếu tướng Trần Ngọc Thổ
Phó CT Hội NNCĐDC/dioxin Việt Nam, Chủ tịch Hội TP Hồ Chí Minh
Bình luận