• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM

Khúc tráng ca 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ

Trong suốt chiều dài lịch sử, với vị trí là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh, Thành cổ Quảng Trị không chỉ có vai trò to lớn đối với sự phát triển của địa phương, mà còn có dấu ấn quan trọng đối với tiến trình phát triển của dân tộc. Đặc biệt, trận chiến 81 ngày đêm bảo vệ thị xã - Thành cổ Quảng Trị 50 năm qua vẫn luôn là bản tráng ca hào hùng của cả nước, là bức tranh đẫm máu làm nên kỳ tích, giành lại độc lập tự do cho dân tộc, quét sạch giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.

Thành cổ Quảng Trị có diện tích 25 ha, nằm ở trung tâm thị xã Quảng Trị, được xây dưới thời Nguyễn (năm 1809 và 1837), gồm hành cung, cột cờ, nơi làm việc của Ty phiên, dinh Tuần phủ, Án sát và một số công trình phòng thủ chiến luỹ, pháo đài, trường bắn, đường phòng hộ, hào quanh thành. Sau đó, người Pháp xây dựng thêm đồn cảnh sát, nhà tù, nơi chỉ huy các binh chủng, bưu điện, trạm xá, kho gạo…

Giai đoạn 1954-1971, các công trình xây dựng thời Nguyễn ở trong Thành bị tàn phá nặng nề. Chính quyền Sài Gòn đã biến nơi đây thành doanh trại đóng quân, sân vận động, nhà lao và dựng thêm một số lô cốt. Trong cuộc chiến năm 1972, Thành cổ bị phá hủy gần hết, chỉ còn lại một số đoạn tường gạch loang lổ vết đạn và 2 cổng tiền, hậu chưa sụp đổ.

Từ năm 1992 đến nay, Di tích đã được tu bổ, bảo tồn những yếu tố gốc còn lại sau chiến tranh, tôn tạo và xây dựng mới nhiều công trình để phục vụ mục đích tri ân, tưởng niệm.

Trong suốt chiều dài lịch sử, với vị trí là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh, Thành cổ Quảng Trị không chỉ có vai trò to lớn đối với sự phát triển của địa phương, mà còn có vị trí quan trọng đối với tiến trình phát triển của dân tộc. Đặc biệt, trận chiến 81 ngày đêm bảo vệ thị xã - Thành cổ Quảng Trị 50 năm qua vẫn luôn là bản tráng ca hào hùng của cả nước, là bức tranh đẫm máu làm nên kỳ tích, giành lại độc lập tự do cho dân tộc, quét sạch giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.

Lớp lớp người tri ân những cống hiến, hy sinh lớn lao của quân và dân

ta ở Thành cổ Quảng Trị nửa thế kỷ trước.

Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Đông Dương chính thức được ký kết. Theo Hiệp định, Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia cắt tạm thời. Một phần của Quảng Trị từ sông Bến Hải trở ra được giải phóng, các huyện từ Gio Linh trở vào đến Hải Lăng trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ.

Thị xã Quảng Trị, trong đó có Thành cổ Quảng Trị đã trở thành trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế - xã hội, Mỹ - chính quyền Sài Gòn đã biến Thành cổ thành khu quân sự, làm kho tàng quân đội và trung tâm chỉ huy chiến dịch toàn tỉnh, đồng thời mở thêm nhà giam để đàn áp các phong trào cách mạng của ta. Chúng luôn coi tuyến phòng thủ Quảng Trị là “con đê ngăn chặn” vững chắc nhất ở miền Nam Việt Nam.

Khi chiến dịch Xuân - Hè năm 1972 được mở ra, sau 2 đợt tấn công và nổi dậy mãnh liệt (từ ngày 30/3 đến 1/5/1972), quân và dân ta đã hợp đồng chặt chẽ tấn công và nổi dậy, quét sạch hệ thống phòng ngự kiên cố nhất và đập tan bộ máy kìm kẹp tàn bạo của Mỹ - chính quyền Sài Gòn từ sông Bến Hải đến Mỹ Chánh, từ Khe Sanh đến Cửa Việt, một vùng đất rộng lớn của quê hương được hoàn toàn giải phóng, toàn tỉnh Quảng Trị được giải phóng…

Để mất Quảng Trị, địch lên kế hoạch phản kích tái chiếm lại thị xã trong tháng 7 và toàn tỉnh Quảng Trị trong tháng 9 năm 1972. Vì vậy, chúng điên cuồng tập trung vào đây một lực lượng quân đội khổng lồ với nhiều binh chủng, nhiều sư đoàn mạnh, trong đó có cả những sư đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị Quốc gia.

Ngày 13/6/1972, Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu mở cuộc hành quân mang mật danh “Lam Sơn 72” hòng chiếm lại Quảng Trị. 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 trung đoàn thiết giáp và nhiều đơn vị không quân, pháo hạm của Mỹ tham gia.

Về mặt chính trị, kẻ thù hy vọng cuộc hành quân này sẽ lấy lại được tinh thần, xóa được tâm lý thất bại trong quân đội, đồng thời gây sức ép với ta tại Hội nghị Paris. Về mặt quân sự, chúng hy vọng sẽ phá được cuộc tấn công của quân ta, giữ vững Cố đô Huế. Về mặt chiến lược, đây là một trong những nỗ lực cuối cùng để cứu vãn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đang bị phá sản.

Sáng sớm ngày 28/6/1972, địch chính thức mở cuộc phản kích mang mật danh “Lam Sơn 72”. Mặt trận Quảng Trị, đặc biệt là thị xã, Thành cổ Quảng Trị trở thành mục tiêu trọng yếu nhất, nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trong 81 ngày đêm lịch sử.

Về phía ta, ba mươi vạn quân dân phía Nam Quảng Trị lại phải đương đầu với thử thách mới, một thử thách vô cùng ác liệt. Bộ đội địa phương, du kích vừa phối hợp khẩn trương đưa 8 vạn dân của thị xã và 2 huyện Triệu Phong, Hải Lăng đến các nơi an toàn, vừa tổ chức nhiều đợt tập kích đánh địch ở nhiều hướng. Khắp các xã, phường phía Nam tỉnh, trên tuyến sông Vĩnh Định, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích nung nấu lời thề “Còn người còn trận địa, quyết tử bảo vệ quê hương”, kiên cường chiến đấu không cho địch tiến vào thị xã.

Sau 20 ngày tiến công vào thị xã, địch chỉ lấn thêm đến làng Tri Bưu, làng Cổ Thành, chợ Sãi, mọi cuộc tấn công ồ ạt của quân địch đều bị chặn lại trước những chốt thép kiên cường của quân và dân ta. Vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt và hy sinh, các chiến sĩ của ta đã chiến đấu kiên cường, chỉ từ ngày 28/6 đến 27/7/1972, lực lượng vũ trang tỉnh đã mở những trận đánh táo bạo ở Hội Yên, Gia Đẳng, Trà Trì, Trà Lộc, Hội Yên, Ngô Xá Đông, Ba Bến, Triệu Sơn, Triệu Trạch, Triệu Thượng…

Bước sang tháng 8, cuộc đọ sức quyết liệt giữa ta và địch ở khu vực thị xã và Thành cổ ngày càng diễn ra ở mức độ cao hơn. Để giữ được Thành cổ, chiến sĩ ta đã phải sử dụng chiến thuật phối hợp hỏa lực và vận động, dùng pháo binh, xe tăng đánh tan những vị trí địch yếu kém. Các dàn súng phòng không cơ động ngăn không cho máy bay đến đúng tầm có thể yểm trợ, nhờ đó xe tăng ào tới chiếm các mục tiêu của địch.

Thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm từ 28/6 đến 16/9 được ví như một túi bom. Trung bình mỗi ngày địch huy động 150 - 170 lần máy bay phản lực, 70 - 90 lần chiếc B52 để ném bom huỷ diệt thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Với diện tích chưa đầy 3 cây số vuông, trong 81 ngày đêm, thị xã và Thành cổ Quảng Trị phải gánh chịu 328.000 tấn bom đạn, trung bình mỗi chiến sĩ của ta phải gánh chịu 100 tấn bom, 200 quả đạn pháo. Báo chí phương Tây thời đó bình luận số đạn pháo này tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử Mỹ đã ném xuống Hirosima Nhật Bản năm 1945.

Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên toàn miền Nam trong các năm 1968-1969. Dữ dội nhất là ngày 25/7, thị xã phải chịu 35.000 quả đạn pháo của Mỹ, chưa kể bom từ máy bay.

Dưới mưa bom, bão đạn khốc liệt của kẻ thù, các đơn vị bộ đội của ta đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, kiên cường bám trụ, chốt giữ, giành giật với địch từng mét chiến hào, từng đống đổ nát; mưu trí, linh hoạt, phát hiện và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thậm chí tiêu diệt cả những bộ phận nhỏ lẻ, bí mật lẻn vào bằng đường hầm hòng cắm cờ trên Thành Cổ.

Qua gần 3 tháng chiến đấu anh dũng, kiên cường, các lực lượng đã hoàn thành nhiệm vụ chiến lược được giao, làm thất bại ý đồ nhanh chóng “Tái chiếm Thành Cổ” của Mỹ, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ đấu tranh chính trị, ngoại giao, dù “Mỗi mét vuông đất mà các chiến sĩ ta giành được ở Thành cổ Quảng Trị thực sự là một mét vuông máu”.

Trong 81 ngày đêm ấy, hàng ngàn chiến sĩ hy sinh tại đây chưa lấy được hài cốt vì khói lửa bom đạn, xương máu các anh đã hòa quyện vào gạch đá đổ nát. Hàng vạn chiến sĩ bất chấp hiểm nguy, vượt con sông Thạch Hãn, vượt qua mưa bom bão đạn, chỉ một mục tiêu tiến đến giữ được Thành cổ Quảng Trị, hết lớp người này đến lớp người khác ngã xuống, thân thể hòa vào lòng sông Thạch Hãn, mãi mãi hy sinh ở độ tuổi đôi mươi.

Dòng Thạch Hãn hôm nay hiền hoà…

Sau này, cựu chiến binh Lê Bá Dương ngày hòa bình trở về chất đầy một thuyền hoa huệ trắng thả xuống sông viếng bạn bè, và từ tim anh nảy ra những câu thơ yêu thương ứa máu dành cho đồng đội:

“Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm

Có tuổi hai mươi thành sóng nước

Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm...”.

Tôi ghi lại mấy lời của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn từ Bảo tàng Thành cổ: “Chúng ta đã chịu đựng không phải chúng ta là gang thép, vì gang thép cũng chảy với bom đạn của chúng. Mà chính chúng ta là những con người, những con người thật sự - những con người Việt Nam, với truyền thống 4.000 năm đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại”.

Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị kéo dài 81 ngày đêm gắn với dòng sông Thạch Hãn đầy bi tráng đã đi vào lịch sử dân tộc, biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa Anh hùng cách mạng Việt Nam. Thắng lợi chiến dịch Xuân - Hè 1972 giải phóng Quảng Trị và cuộc chiến đấu ngoan cường 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ đã trở thành vấn đề chính trị trung tâm làm lung lay cả nước Mỹ, tạo tương quan lực lượng có lợi cho ta phát huy sức mạnh tổng hợp, để quân và dân ta mở cuộc tấn công vũ bão, thần tốc làm nên đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc…

Theo chuyên viên Bảo tàng Báo chí Việt Nam Mai Chí Vũ thì trong 50 năm qua, có hơn nửa triệu bản tin, bài báo, ký sự, phóng sự của Việt Nam và thế giới viết về Thành cổ, về 81 ngày đêm… Tập hợp, lưu trữ, giới thiệu những tác phẩm đó trong một không gian riêng cũng là một dự định tốt đẹp của Bảo tàng Báo chí Việt Nam.

Nguồn: Báo Thái Nguyên

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác

    Chung một niềm tin bảo vệ Đảng

    Chung một niềm tin bảo vệ Đảng

    Tối 24-4, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Báo Quân đội nhân dân (QĐND) phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MB) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải Cuộc thi viết “Bảo vệ nền ...
    Nơi nghĩa tình sâu nặng vì nạn nhân chất độc da cam

    Nơi nghĩa tình sâu nặng vì nạn nhân chất độc da cam

    Tôi tên là: Trần Văn Toàn, 72 tuổi; quê quán: xã Nam Tiến, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Tôi được đến Trung tâm Bảo trợ xã hội NNCĐDC/dioxin Việt Nam, địa chỉ tại xã Yên Bình, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội để xông hơi giải độc từ ngày 29/3 đến ngày 18/4/2024. Trước khi rời Trung tâm về địa phương, tôi xin có đôi ...