• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM

Tuyên ngôn Độc lập - tư tưởng vĩ đại về quyền con người và quyền dân tộc tự quyết

Ngày 10-12-1948, Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền-một trong những văn kiện có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong tư duy và hệ thống pháp luật của quốc gia cũng như quốc tế của thế kỷ 20. Trước đó 3 năm, ngày 2-9-1945, một văn kiện chính trị đã mở ra trang mới trong lịch sử nhân loại về giải phóng dân tộc, quyền dân tộc tự quyết và thực hiện quyền con người, đó là Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa-nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.    

Tuyên ngôn Độc lập đã tuyên bố trước thế giới về nền độc lập, chủ quyền của nhân dân, quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Những giá trị mang tầm thời đại của Tuyên ngôn Độc lập có sức sống mãnh liệt, là nguồn ánh sáng soi đường cho nhân dân Việt Nam, các dân tộc bị áp bức và toàn thể nhân dân lao động yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Tư tưởng về quyền con người, quyền dân tộc tự quyết là sự thể hiện cao nhất của chủ nghĩa nhân văn cao cả và chủ nghĩa yêu nước chân chính mà  Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cho lịch sử nhân loại tiến bộ.

Quyền dân tộc tự quyết là một quyền con người cơ bản

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã thể hiện một cách rõ nét tư tưởng về quyền con người, quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Người đã rất sáng tạo khi phát triển, tiếp cận với quyền dân tộc từ quyền con người như một tất yếu tự nhiên, đó là quyền mà tạo hóa đã ban cho con người quyền được sống tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.

Tuyên ngôn Độc lập đã mở đầu từ các quyền tự nhiên của con người được thế giới thừa nhận thành những giá trị hiến định. Không ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mượn dẫn lời trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1791) để mở đầu cho bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của cách mạng Việt Nam. Sự trích dẫn này không chỉ thể hiện một hiện thực khách quan của nhận thức chân lý mà còn là tư duy nội tại của nhận thức biện chứng.

Tuyên ngôn Độc lập - tư tưởng vĩ đại về quyền con người và quyền dân tộc tự quyết
 Tiết mục nghệ thuật ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Chương trình nghệ thuật "Việt Nam khát vọng vươn xa". Ảnh: VIỆT LAM

Để xác lập quyền dân tộc, đấu tranh cho quyền dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ quyền con người, Người không đi trực tiếp vào quyền dân tộc mà phải thông qua quyền con người. Bởi vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền con người chính là cơ sở nền tảng để thiết lập quyền dân tộc. Từ quyền con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do của mỗi dân tộc được sinh ra trên thế giới này là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.

Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã góp phần tạo lập và khẳng định một nền pháp lý-công lý mới của văn minh nhân loại vì giá trị, phẩm giá và quyền con người, hướng tới công bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi áp bức, bất công trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. Điều đó càng khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những giá trị văn hóa của nhân loại mà còn nâng nó lên một tầm cao mới. Từ hạnh phúc của mỗi cá nhân, Người nâng lên thành quyền sống, quyền tự do và sung sướng của tất cả các dân tộc.

Độc lập, tự do là giá trị nền tảng và quan trọng nhất của quyền con người

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân, quyền dân tộc tự quyết là sự kết hợp nhuần nhuyễn, khoa học giữa lý luận và thực tiễn. Trong đó, Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là văn kiện chính trị pháp lý thể hiện đầy đủ, sâu sắc nhất của chủ nghĩa nhân văn chân chính nhất; là sự thống nhất biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc tự quyết; giữa giá trị truyền thống và hiện đại; giữa giá trị dân tộc và giá trị thời đại; là sự thống nhất giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế; là sự khẳng định một chân lý vĩnh cửu của nhân loại: “Mọi người sinh ra là tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền” như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được Liên hợp quốc thông qua năm 1948.

Theo các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, những tư tưởng đặc sắc về quyền con người, quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã tiên liệu những điều khoản quan trọng trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người, quyền dân tộc, như quyền bình đẳng giới, quyền dân tộc tự quyết.

Điều đặc biệt là Tuyên ngôn Độc lập ra đời ngày 2-9-1945, đến ngày 10-12-1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền gồm 30 điều được coi là nhiệm vụ mà tất cả các dân tộc và tất cả các quốc gia đều cần thực hiện. Với Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền cơ bản của con người, của dân tộc Việt Nam và của cộng đồng dân tộc trên thế giới. Bằng trí tuệ thiên tài và tư tưởng nhân văn cao cả, Người đã khẳng định xu hướng phát triển của thời đại, đó cũng là chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tự do cho mỗi người và độc lập cho mỗi quốc gia là chân lý, là xu thế tất yếu của lịch sử. Từ giữa thế kỷ 20, nhiều nước Á-Phi đã thừa nhận đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự xác lập một định chế pháp lý quốc tế mới-nền công pháp quốc tế bảo vệ các quyền tự do và bình đẳng của tất cả dân tộc trên thế giới.

Như vậy, ý tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập về quyền độc lập của dân tộc đã được chuyển tải thành nội dung của một quy phạm pháp luật quốc tế tại Hội nghị thế giới về nhân quyền họp ngày 25-6-1993. Tuyên ngôn Vienna (Cộng hòa Áo) và chương trình hành động của hội nghị đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Với quyền đó, các dân tộc tự quyết định thể chế chính trị của mình và tự do theo đuổi con đường kinh tế-xã hội và văn hóa của mình”.

Ngày nay, quyền con người đã được luật hóa và quốc tế hóa về nhiều mặt, nhưng việc bảo đảm quyền con người chủ yếu vẫn thuộc thẩm quyền quốc gia. Sự hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người là rất quan trọng, vì đã bổ sung thêm nguồn lực và kinh nghiệm trong việc bảo đảm quyền con người. Tuy nhiên, các cơ chế nhân quyền quốc tế chỉ nhằm bổ sung chứ không thể thay thế các cơ chế đang vận hành tại các quốc gia. Đối với việc bảo đảm các quyền kinh tế-xã hội và văn hóa, trách nhiệm của quốc gia càng rõ, không có bất kỳ một quốc gia hay tổ chức quốc tế nào có thể đảm đương được việc bảo đảm quyền con người thay cho nhà nước sở tại.

Hơn bao giờ hết, để giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải nắm vững lý luận về quyền con người và quyền dân tộc, đặc biệt là cách tiếp cận từ quyền con người đến quyền dân tộc, mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945.

Nguồn: Báo QĐND

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác

    Sẵn sàng cho ngày hội non sông

    Sẵn sàng cho ngày hội non sông

    Sáng 30/8, hơn 40 nghìn người đã tham gia tổng duyệt cấp Nhà nước Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam diễn ra ...
    Thầm lặng trong nỗi đau da cam

    Thầm lặng trong nỗi đau da cam

    Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả vẫn ẩn hiện trong nhiều gia đình nạn nhân nhiễm chất độc da cam. Thầm lặng đằng sau nỗi đau ấy là những người mẹ, người vợ, người chị tảo tần, vất vả hy sinh, chăm lo cho gia đình và trở thành điểm tựa ...