Ông Trần Bá Nên đang trả lời bằng cách viết ra giấy
Một buổi sáng, tôi đang thu dọn đồ đạc trước cửa nhà, thì một ông trạc tuổi 60 xách 2 chiếc túi đến trước cửa vẫy tôi lại và ra hiệu. Chưa kịp hỏi “Xin lỗi ông cần gì ạ”, ông đã lấy mảnh giấy nhỏ và cây bút viết: “Bác là bộ đội, cựu chiến binh, bị câm không nói được. Bác đến mua vé xe về Bắc (nhà tôi mở dịch vụ xe Bắc Nam), mong cháu giúp”. Vì không thể nói chuyện với ông được, tôi viết: ông về đâu? – về Thanh Hóa.
Không hiểu sao, tôi trào dâng xúc động. Suy nghĩ giây lát, tôi “quyết định phỏng vấn” ông để biết thêm chi tiết về cuộc đời người cưu chiến binh này. Vậy là tôi làm cuộc “phỏng vấn” trên giấy. Tôi hỏi, ông trả lời bằng cách viết ra tờ giấy nhỏ.
Ký ức chiến tranh
Năm 1967, chàng trai Trần Bá Nên tròn 18 tuổi, cùng bao thanh niên xã Quảng Lưu, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá lên đường tòng quân nhập ngũ. Hành trang anh mang theo là tình yêu quê hương làng xóm và lòng căm thù giặc sâu sắc. Tuổi 18 phơi phới sức trai, chưa kịp yêu một người con gái, tạm biệt xóm làng, Nên xung phong vào chiến trường miền Nam chiến đấu.
Thời điểm ấy, cuộc chiến tranh ở miền Đông Nam bộ diễn ra ác liệt. Anh được phân công về Tiểu đoàn 100, Trung đoàn 546, Sư đoàn 470. Từ năm 1967-1975 anh chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên, Miền Đông Nam bộ và chiến trường Khe Sanh, Quảng Trị. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc Nam thống nhất, sum họp một nhà, giang sơn thu về một mối, Nên xuất ngũ về quê. Chưa kịp lấy vợ, thì anh lại nhận lệnh tái ngũ theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Đơn vị anh công tác là Tiểu đoàn 2, thuộc Sư đoàn 338, chiến đấu trên chiến trường biên giới Tây Nam (tỉnh Tây Ninh) và chiến trường Căm-pu-chia. Thời gian này, anh cùng bao đồng đội phải “nếm mật nằm gai”. Những đêm hành quân trong rừng Trường Sơn không ngủ. Cả đơn vị dừng chân bên suối ăn cơm vắt và uống nước suối. Có ngờ đâu, dòng nước suối trong vắt ngon ngọt ấy trước đó đã bị nhiễm chất độc đioxin rất nặng mà cả đơn vị không hề biết. Sáng ra, cánh rừng già bàng bạc màu cỏ úa. Dòng suối đêm qua trong vắt, vậy mà giờ đây đục lờ lờ như nước vo gạo. Chẳng ai suy nghĩ điều gì, khoác ba lô tiếp tục hành quân.
Kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Nên xuất ngũ về quê với ý định lấy vợ, sinh con làm ăn như bao trai làng khác. Nhưng có ngờ đâu, tai ương ập tới. Một trận ốm thập tử, nhất sinh, anh phát đủ thứ bệnh.
Như nhớ lại ký ức chiến tranh, ông nhìn tôi rồi cặm cụi viết: “Những người chiến đấu trong rừng Trường Sơn năm ấy, có 60% nhiễm chất độc đioxin. Nhiều người lấy vợ, sinh con không có chân tay, không có đầu. Còn bác, sau khi xác định bị nhiễm, câm và ….” (ông không muốn nói bị vô sinh nên mới viết 4 dấu chấm. Mãi sau, ông mới viết thật là ông bị vô sinh nên không lấy vợ). “bác không lấy vợ cháu ạ. Bác đã sinh sống ở cơ sở nuôi dưỡng người có công tỉnh Thanh Hóa 20 năm, sau đó bác về quê được một năm thì địa phương làm cho một căn nhà tình nghĩa và bác sống độc thân”.
Theo Quyết định của Giám đốc Sở Lao động Thương binh xã hội tỉnh Thanh Hóa ký ngày 14/3/2001 (do Phó giám đốc Lê Hồng Lương ký). “Trợ cấp thường xuyên hàng tháng cho Trần Bá Nên, sinh năm 1949, quê ở xã Quảng Lưu, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, thuộc đối tượng trực tiếp bị nhiễm chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh là 88.000 đồng”
Nỗi đau hậu chiến
Trở về từ chiến trường Căm-pu-chia năm 1983, biết bệnh của mình, Nên không lấy vợ, anh em gia đình, người thân, bạn bè thời chăn trâu cắt cỏ bảo “Thằng Nên dại thế, câm vẫn lấy được vợ, đẻ con, có sao đâu?”. Họ đâu có biết rằng, những tháng ngày chiến đấu ở Căm-pu-chia, chiến trường biên giới Tây Nam và Trường Sơn, anh và đồng đội đã uống nước suối rừng, ăn rau tàu bay thay cơm, ngủ giữa rừng có chất độc đioxin. Những trận sốt rét miên man ở biên giới Căm-pu-chia làm chân tay phù thũng, môi thâm xì, máu đen như máu đỉa đã cướp đi quyền làm bố của anh. Đồng đội của Nên, có người lấy vợ, sinh con, song những đứa con họ sinh ra không nguyên vẹn. Đứa không có tay chân, đứa không có đầu- một di chứng ác liệt, tàn khốc của chiến tranh để lại- một nỗi đau hậu chiến của những người lính. Nỗi đau ấy, gấp triệu lần sự chết chóc, gian khổ trên chiến trường đánh Mỹ. Và, mỗi khi một ai đó vô tình “chạm” đến nỗi đau này, Nên lặng đi, nghĩ về những người đồng đội cùng chung số phận như anh.
Bút tích của ông Trần Bá Nên chia sẻ
Có lẽ, câm và vô sinh, đó là nguyên nhân khiến anh không lấy vợ. Vì anh không muốn đặt lên vai người thương yêu anh thêm gánh nặng và sự thất vọng làm mẹ của họ. Vì thế, sau khi xét nghiệm biết chính xác bị nhiễm chất độc da cam (bị câm và vô sinh), anh Nên đã tự nguyện đến cơ sở nuôi dưỡng người có công tỉnh Thanh Hóa và ở đó từ năm 1984 đến năm 2004.
Thời gian lặng lẽ trôi đi làm thay đổi cuộc sống của bao người, song đối với anh Nên thì vẫn thế. Có chăng, chiến sĩ Trần Bá Nên đẹp trai, trẻ, khỏe ngày nào giờ đã lên tuổi ông, có điều ông quạnh hiu một mình và tóc thêm nhiều sợi bạc. Sau 20 năm ở cơ sở nuôi dưỡng, ông Nên về quê và một năm sau thì địa phương làm cho ông một căn nhà tình nghĩa. Tuy không nói được, nhưng tinh thần ông vẫn minh mẫn lắm. Trong ngôi nhà rộng, nhưng trống vắng, lúc trái gió trở trời, vết thương tái phát, ông được các cháu trong họ hàng chăm sóc, bà con lối xóm và đồng đội bên cạnh cho đỡ phần hưu quạnh. Trong giấy “phỏng vấn” ông viết: “Bác được Đảng, Nhà nước quan tâm như thế là tốt lắm rồi, hàng tháng cũng đủ tiền tiêu”, khi tôi hỏi: bác có điều gì trăn trở, thiếu thốn?
Vẹn tình đồng đội
Ông Nên lục từ chiếc túi du lịch cũ đưa cho tôi xem giấy tờ. Ông từ Thanh Hóa lặn lội ra tận Côn Đảo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu để tìm mộ của đồng đội là Nguyễn Văn Việt, bạn chiến đấu, song không tìm thấy mộ. Trong giấy xác nhận tại Côn Đảo của Ban quản lý di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo do ông Đoàn Hữu Hoài Minh, ký, có nghi “… Ông Trần Bá Nên, quê ở Quảng Lưu, Quảng Xương, Thanh Hóa có đến Ban quản lý di tích Lịch sử Cách mạng Côn Đảo để tìm mộ liệt sĩ là Nguyễn Văn Việt, bạn chiến đấu, song không tìm thấy mộ”.
Vì nhớ đồng đội cũ thời chiến tranh, đã cất công từ Thanh Hóa đến tìm đồng đội ở Sư đoàn 470. Trong lá đơn “xin hỗ trợ” gửi Sư đoàn 470 có đoạn viết: “Cả đời tôi chiến đấu và phục vụ Tổ Quốc. Chiến tranh đã lấy đi của tôi giọng nói, thân thể. Tôi bị chất độc đioxin tàn phá thân thể tôi. Tôi không lấy vợ, không con là vì không muốn đặt lên vai người tôi thương yêu thêm gánh nặng và niềm vô vọng làm mẹ của họ. Những ngày cuối của cuộc đời, tôi phải tìm những người đồng đội cũ - những người đã cùng tôi chiến đấu trên những cánh rừng già, những cung đường Trường Sơn dầy đặc bom rơi, đạn nổ. Tôi cất công đi tìm đồng đội chỉ tri ân họ, để ôn lại ký ức của chiến tranh, đó là nghĩa tình đồng đội của tôi, một cựu chiến binh già”.
Không chỉ nghĩa tử, đối với những người đồng đội đã hy sinh trong chiến tranh, ông Nên còn ân sâu nghĩa nặng đối với những đồng đội còn sống. Trong mảnh giấy nhỏ ông viết: “Bác cũng có nhiều bạn bè còn sống từ chiến trường về ở huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, khi tôi nói với ông, tôi quê huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Năm ngoái, bác ra đám tang một anh thương binh ở xã Nga Phú”.
Có lẽ ông Nên đã đi nhiều nơi để tìm đồng đội, và ở đâu ông cũng phải viết ra giấy cho mọi người hiểu. Vì thế mà giấy và bút là hai thứ, người bạn đồng hành không thể thiếu theo bước chân hành trình cùng ông, để sẵn sàng viết và hỏi ai chuyện gì đó khi cần. Với một người cưu chiến binh đã từng chịu nhiều hy sinh mất mát như ông, vào sinh, ra tử cùng với bao đồng đội, thì hạnh phúc nào hơn là được gặp lại những người đồng đội cũ. Đó không chỉ là máu thịt, là cuộc đời, là ký ức chiến tranh, mà còn là trăn trở, là mong mỏi của ông trong những ngày cuối của cuộc đời.
Tôi viết bài này với tất cả sự kính trọng người đồng đội, thế hệ đi trước, như thay lời động viên tinh thần ông Nên vượt qua khó khăn của cuộc sống đời thường, đạt được ước mơ giản dị. Đúng như ông viết “cháu ơi, cứ tin rằng bác tàn nhưng không phế, vẫn cố gắng sống xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”.
Bình luận