• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM

XÂY DỰNG ĐẢNG Ở CÁC HỘI DO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC GIAO NHIỆM VỤ - THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP

Theo Quyết định số 118-QĐ/TW, ngày 22/8/2023 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Quy chế tổ chức và hoạt động của hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương, hiện nay có 30 hội đang hoạt động. Công tác xây dựng Đảng ở các hội được quan tâm; cấp ủy đảng cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của hội. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đang đặt ra những vấn đề mới cần có giải pháp thống nhất và nâng cao hiệu quả xây dựng và hoạt động của tổ chức đảng ở các hội này.  Để giúp bạn đọc tham khảo, nghiên cứu có tính hệ thống về chủ đề trên, Tạp chí điện tử Da cam Việt Nam đăng bài viết của tác giả: Hồng Lâm - Mạnh Dũng. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.  

I

Thực trạng và vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng Đảng ở hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ

 Hội được xác định là tổ chức tự nguyện của tổ chức, công dân Việt Nam cùng lĩnh vực, ngành nghề  có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều 8, Quyết định 118-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng quy định tổ chức đảng ở hội gồm: đảng đoàn, đảng bộ, chi bộ. Đảng đoàn hội do Ban Bí thư Trung ương Đảng thành lập; chịu sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Bí thư, thực hiện chức năng lãnh đạo, chỉ đạo đối với hội theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương. Đảng bộ, chi bộ ở hội là tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương, Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương hoặc Đảng bộ thành phố trên địa bàn đứng chân.

Hiện nay, trong số 27 hội ở Trung ương có tổ chức đảng, thì 10 hội có đảng đoàn do Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ định, gồm: Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt Nam. Có 01 hội thành lập đảng ủy cơ sở là: Hội Người cao tuổi Việt Nam. Có 16 hội thành lập chi bộ, trong đó 03 hội có chi bộ trực thuộc các quận ủy của Thành ủy Hà Nội gồm: Hội Khuyến học Việt Nam, Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam, Hội Người mù Việt Nam; có 13 chi bộ trực thuộc Đảng ủy phường. Có 03 hội chưa thành lập tổ chức đảng: Hội Cựu thanh niên xung phong Việt Nam, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam và Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam.

Những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng ở các hội này luôn thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác tổ chức và hoạt động của hội theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của cơ quan chức năng; chú trọng công tác xây dựng, củng cố các tổ chức đảng, giữ vững nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo; đồng thời, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Nâng cao tính kỷ luật nghiêm minh trong thực hiện hiến pháp và pháp luật. Công tác tổ chức đảng luôn bám sát, thực hiện đúng Quyết định số 172-QĐ/TW, ngày 07/3/2013 và Quy định số 97-QĐ/TW ngày 07/2/2023 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương; Quyết định số 162-QĐ/TW, ngày 05/12/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về việc ban hành Quy chế làm việc mẫu của đảng đoàn, ban cán sự đảng trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở đó, tổ chức đảng ở các hội này được xây dựng phù hợp với quy mô tổ chức lực lượng và nhiệm vụ được giao. Công tác phát triển đảng viên được quan tâm, bảo đảm chất lượng, số lượng theo quy định. Trong 27 hội đã thành lập tổ chức đảng, có 2.272 đảng viên. Các tổ chức đảng luôn thực hiện đúng các quy định, hướng dẫn của Đảng; chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, lối sống lành mạnh; có ý thức tổ chức kỷ luật cao; có trình độ năng lực và phương pháp, tác phong, lề lối làm việc dân chủ, khoa học; có tinh thần trách nhiệm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, các đồng chí thường trực hội nguyên là lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, tướng lĩnh các lực lượng vũ trang, các nhà văn hóa, nhà khoa học, trí thức, văn nghệ sỹ và các cá nhân tiêu biểu, có kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác, đã phát huy tốt vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên.

Cùng với đó, cấp ủy các hội còn quan tâm giáo dục chính trị tư tưởng, tích cực triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Công tác vận động, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được coi trọng; thường xuyên định hướng chính trị tư tưởng, động viên cán bộ, nhân viên phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xây dựng hội vững mạnh toàn diện, xứng đáng là cầu nối giữa Đảng với hội viên và quần chúng nhân dân, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đảng bộ Hội Nhà báo Việt Nam trao bằng khen cho 18 đảng viên “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu biểu” năm 2023.

Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng ở các hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ cũng gặp không ít khó khăn, đặt ra những vấn đề mới và “vướng mắc” cần tháo gỡ trong thực tiễn. Mô hình tổ chức đảng trong các hội chưa thống nhất, mặc dù tương đồng về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quy mô tổ chức (có 11 hội thành lập đảng bộ; 16 hội thành lập chi bộ, trong đó 03 hội có chi bộ trực thuộc các quận ủy trong thành phố Hà Nội; có 03 hội chưa thành lập tổ chức đảng). Công tác phát triển đảng viên ở các hội chưa tương xứng với quy mô tổ chức, tiềm năng và yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở các hội chưa có tổ chức đảng. Thực tiễn ở Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam cho thấy, có không ít cán bộ, nhân viên đã công tác nhiều năm ở hội, có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức phấn đấu, có nguyện vọng được đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhưng vì hội chưa thành lập tổ chức đảng nên việc vào Đảng gặp rất nhiều khó khăn. Theo quy định, có thể giới thiệu về kết nạp tại chi bộ địa phương nơi cư trú. Tuy nhiên, cấp ủy ở địa phương nơi cư trú vẫn băn khoăn về công tác quản lý chất lượng nguồn, do đồng chí đó không có mặt thường xuyên ở địa phương, thậm chí công tác ở xa địa phương vài chục km…

Về số lượng biên chế ở các hội, theo quy định, đa số các hội có biên chế ít hơn 30 người. Ví dụ: Liên hiệp các hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam biên chế 17 cán bộ, nhân viên; có 22.000 hội viên; quy mô tổ chức: đảng đoàn, đảng ủy cơ sở. Hội Người cao tuổi Việt Nam biên chế 20 cán bộ, nhân viên; có hơn 11,4 triệu hội viên; quy mô tổ chức: đảng ủy cơ sở. Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam, biên chế 14 cán bộ, nhân viên, có 1.048 hội viên; quy mô tổ chức: chi bộ. Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, biên chế 8 cán bộ, nhân viên; có trên 400.000 hội viên; quy mô: chưa thành lập tổ chức đảng.

Thực tế đa số các hội này đều phải hợp đồng thêm để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Ví dụ: Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam, biên chế 07 cán bộ, nhân viên, hợp đồng 8; Hội Khuyến học Việt Nam, biên chế 06 cán bộ, nhân viên, hợp đồng 11; Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi, biên chế 05 cán bộ, nhân viên, hợp đồng 21… Trong 30 hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, số hợp đồng là 578 người; vì thế việc thành lập tổ chức đảng và phát triển đảng viên phải tính đến cả thành phần hợp đồng để bảo đảm quyền lợi chính trị cho người lao động.

Điểm 4, Điều 21, Điều lệ Đảng quy định: “Tổ chức cơ sở đảng có từ 30 đảng viên trở lên lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy”. Đồng thời Điểm 5, Điều 21 cũng quy định thêm trường hợp “Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên, phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện”; đây cũng là sự vận dụng theo hướng mở, tạo thuận lợi cho công tác thành lập tổ chức đảng ở các hội này. Tuy nhiên, thực tế khó vận dụng. Ví dụ:

Ở Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, khi đề xuất kế hoạch thành lập tổ chức đảng thi đang “vướng mắc” là: Hội xây dựng kế hoạch thành lập Đảng bộ gồm 3 chi bộ; trong đó gồm chi bộ cơ quan (13 đảng viên) và 2 chi bộ ở 2 đơn vị trực thuộc Trung ương Hội (Tạp chí Da cam Việt Nam 4 đảng viên và Trung tâm Bảo trợ xã hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, 4 đảng viên). Tuy vậy, theo hướng dẫn của cơ quan chức năng: “nếu tổ chức đảng được lập ở Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam thì sẽ là chi bộ cơ quan có 13 đảng viên (mà không phải Đảng bộ Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam gồm 21 đảng viên)”. Theo đó, nếu thành lập Đảng bộ cơ quan sẽ không thể có đủ số người 30 đảng viên theo quy định. Nếu thành lập 3 chi bộ độc lập trực thuộc cấp ủy của Đảng bộ ở các địa phương khác nhau sẽ rất bất tiện trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, cũng như xây dựng chi bộ. Đó là chưa nói đến khó khăn khi Đảng ủy cấp phường lãnh đạo, chỉ đạo công tác của Trung ương Hội…

Trước thực trạng tình hình và những vấn đề đặt ra đó, rất cần có giải pháp đồng bộ, cụ thể để thống nhất tổ chức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, góp phần xây dựng hội vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.

II

Giải pháp xây dựng, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ

  Để xây dựng, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở hội được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, theo chúng tôi các hội cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau :

1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, trong đó tập trung thực hiện tốt Quyết định số 118-QĐ/TW ngày 22/8/2023 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng ở các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ.

Trước hết, các cấp hội cần nhận thức đúng vị thế của mình khi được Đảng, Nhà nước trực tiếp giao nhiệm vụ để có cách nhìn nhận thấu đáo hơn về việc cần thiết phải thành lập các tổ chức đảng ở đó. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt quan điểm, chủ trương, quy định của Đảng về tổ chức và hoạt động của hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ. Tập trung vào Quyết định số 172-QĐ/TW, ngày 07/3/2013 và Quy định số 97-QĐ/TW ngày 07/2/2023 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương; Quyết định số 118-QĐ/TW ngày 22/8/2023 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương; Thông báo số 158-TB/TW ngày 02/01/2020 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Kết luận số 102-KL/TW của Bộ Chính trị khoá XI về hội quần chúng trong tình hình mới; Nghị định số 126/2024/NĐ-CP ngày 08/10/2024 của Chính phủ Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, v.v.

Trên cơ sở đó, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên ở các hội đối với việc xây dựng tổ chức đảng và nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của hội, cũng như công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên. Do đặc thù hoạt động của hội nên phương pháp, hình thức tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện phải đa dạng, phong phú, thông qua sinh hoạt, học tập, công tác; tập trung nâng cao nhận thức cho các đối tượng về nguyên tắc tổ chức và hoạt động lãnh đạo của tổ chức đảng.

Trong quá trình thực hiện cần bám sát sự chỉ đạo của các Ban Đảng phụ trách theo dõi, chỉ đạo và Bộ trực tiếp quản lý nhà nước, theo sự phân công của Ban Bí thư và Chính phủ. Ví dụ: Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam do Ban Tuyên Giáo Trung ương theo dõi, chỉ đạo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam do Ban Tuyên Giáo Trung ương theo dõi, chỉ đạo; Bộ Khoa học và công nghệ quản lý nhà nước. Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam và Hội Nạn nhân chất độc Da cam/dioxin Việt Nam do Ban Dân vận Trung ương theo dõi, chỉ đạo; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý nhà nước,…

Từng hội xây dựng chương trình, nội dung quán triệt, bồi dưỡng, học tập theo chuyên đề để không ngừng nâng cao nhận thức của đảng viên về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề này. Chủ động bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở. Đây là một trong những nội dung quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo và kết quả triển khai nhiệm vụ của hội. Vì thế, cần thường xuyên làm tốt công tác bồi dưỡng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở về lý luận chính trị, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng, công tác quần chúng, kinh nghiệm thực tiễn,... Mặt khác, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở đảng, đảm bảo cho các hội luôn hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích; kịp thời báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật đối với tổ chức, cá nhân vi phạm theo quy định.

2. Xây dựng tổ chức đảng phù hợp với quy mô tổ chức bộ máy và nhiệm vụ của hội.

Trước hết, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hội theo quy định tại Chương III (Tổ chức hội) của Nghị định số 126/2024/NĐ-CP ngày 08/10/2024 của Chính phủ Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Tập trung vào các thời điểm quan trọng như: thành lập hội, tổ chức đại hội nhiệm kỳ, tổ chức bộ máy, chế độ chính sách đối với người hoạt động thường xuyên tại hội (cả trong biên chế và hợp đồng),… làm cơ sở để xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức đảng đúng với Điều lệ Đảng và phù hợp với quy mô tổ chức lực lượng và nhiệm vụ của hội, bảo đảm cho hội ổn định và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, các hội cần sắp xếp, kiện toàn tổ chức đảng theo hướng bám sát cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của từng hội; gắn việc kiện toàn cấp ủy với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, hoàn thiện các chức danh về đảng. Cụ thể: bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị; phó bí thư là một trong các phó chủ tịch hội; các ủy viên ban thường vụ đảng ủy (hoặc chi ủy) là cấp trưởng một số ban, đơn vị của hội. Đảng viên là người làm việc thường xuyên tại hội phải tham gia sinh hoạt trong tổ chức đảng ở hội, đóng vai trò nòng cốt, nêu cao trách nhiệm, tinh thần tiên phong, gương mẫu trong mọi hoạt động của hội. Đây là đòi hỏi khách quan, bởi tổ chức đảng nói chung, tổ chức cơ sở đảng nói riêng luôn nằm trong tổng thể của hệ thống tổ chức lực lượng.

3. Coi trọng công tác phát triển đảng viên trong hội, đảm bảo số lượng đủ, chất lượng cao.

Trước hết, cấp uỷ, chi bộ các hội phải nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nói chung và phát triển đảng viên nói riêng; xác định phát triển đảng viên là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, thường xuyên và là trách nhiệm của cấp uỷ, chi bộ, của từng đảng viên.

Để công tác phát triển đảng viên đạt kết quả tốt, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, đề cao lý tưởng cách mạng cho cán bộ, nhân viên trong hội; tạo môi trường thuận lợi để quần chúng học tập, giác ngộ lý tưởng, hình thành động cơ trong sáng, tích cực rèn luyện, phấn đấu vào Đảng. Một thực tế là nhân viên ở các hội thường có độ tuổi trung bình từ 30 – 40, vì thế cần kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục chính trị, tư tưởng với động viên và kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tế. Để làm được điều đó, các chi bộ phải xây dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết, phù hợp với điều kiện thực tế ở hội; hằng năm có đánh giá tình hình phát triển đảng viên,…

Cấp ủy và Thường trực Trung ương Hội cần quan tâm chỉ đạo, xây dựng các đoàn thể vững mạnh (Hội phụ nữ, đoàn thanh niên,…); nắm chắc, đánh giá đúng đối tượng nguồn, vừa bổ sung cho chi bộ, vừa bổ sung nguồn nhân lực cho hội, cả trước mắt và lâu dài. Trên cơ sở tạo nguồn, kịp thời giới thiệu, cử đi học lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, phân công đảng viên theo dõi, giúp đỡ, giao nhiệm vụ cụ thể để quần chúng thử thách, rèn luyện, phấn đấu đủ tiêu chuẩn trở thành đảng viên.

Mặt khác, cần thực hiện chặt chẽ các nguyên tắc, quy trình, bảo đảm đúng tiêu chuẩn, thủ tục, thẩm quyền tổ chức kết nạp, coi trọng cả về số lượng và chất lượng khi xem xét, kết nạp đảng; tổ chức lễ kết nạp đảng viên, phân công đảng viên chính thức theo dõi, giúp đỡ đảng viên dự bị… theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.

4. Củng cố, hoàn thiện các loại hình tổ chức cơ sở đảng, phù hợp với đặc điểm của mỗi hội.

Để thực hiện tốt nội dung này, cần đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện mô hình tổ chức xây dựng và hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng ở các hội, trên cơ sở đó hoàn thiện mô hình tổ chức cho phù hợp. Theo chúng tôi nên thực hiện mô hình: tổ chức đảng ở các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương (không trực thuộc đảng ủy phường, quận, thành phố). Bởi lẽ, Đảng uỷ khối các cơ quan Trung ương là cấp uỷ cấp trên trực tiếp của các đảng bộ, chi bộ trong các cơ quan Trung ương (thuộc khối), đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư nên công tác lãnh đạo, chỉ đạo sẽ sát hơn, hiệu quả sẽ cao hơn.

Hiện nay, trong số 30 hội ở Trung ương do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ thì đa số các hội có dưới 30 đảng viên, quy mô tổ chức không đủ điều kiện thành lập đảng bộ. Vì thế, theo chúng tôi, rất cần vận dụng linh hoạt, chủ yếu căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ để các hội được thành lập Đảng bộ trực thuộc Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương. Nếu thành lập chi bộ trực thuộc đảng bộ phường hoặc quận ủy ở nơi đứng chân thì việc lãnh đạo chỉ đáp ứng được công tác quản lý hành chính, không sát chức năng, nhiệm vụ đặc thù của các hội. Vì thế, kết quả sẽ bị hạn chế rất nhiều.

Đối với các cấp ủy, cần thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng sinh hoạt của các cấp ủy, chi bộ trực thuộc; tích cực đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn. Trong đó, cần chú trọng thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết trong Đảng. Đề cao vai trò của người đứng đầu các hội, đảm bảo cho họ thực sự là hạt nhân đoàn kết, có năng lực, phương pháp công tác phù hợp để giải quyết những vấn đề do nhiệm vụ của hội đặt ra. Nâng cao năng lực quán triệt, cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết của cấp ủy cấp trên và chủ động đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm của hội mình; giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh trong thực tiễn.

Mặt khác, phải tập trung thực hiện tốt các nghị quyết, kết luận của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những trường hợp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kịp thời phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; khắc phục tình trạng “bệnh” hình thức, chạy theo thành tích trong đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên…

Xây dựng tổ chức đảng trong các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương trong sạch, vững mạnh, có cơ cấu tổ chức và nội dung, phương pháp lãnh đạo phù hợp với hoạt động của các hội chính là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hội. Bởi vậy, đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay, cần có nhận thức đúng, triển khai tích cực và sự vận dụng sáng tạo với yêu cầu của thực tiễn, đảm bảo cho các hội đó hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, đạt hiệu quả cao, đáp ứng được kỳ vọng của các đối tượng mà hội đó quản lý, không phụ lòng tin của Đảng, Nhà nước và Nhân dân./.

 Thiếu tướng TS Đỗ Hồng Lâm

Đại tá Ths Nguyễn Mạnh Dũng

 

 

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác