• Quảng cáo: 0246.265.2654
Tiếng Việt
English
logo
ĐOÀN KẾT - NGHĨA TÌNH - TRÁCH NHIỆM - VÌ NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC DA CAM

SỬ DỤNG MỘT CÁCH TIẾP CẬN VỀ SỨC KHỎE ĐỂ HIỂU BIẾT VỀ QUY MÔ ẢNH HƯỞNG CHẤT ĐỘC TCDD Ở VIỆT NAM

Phơi nhiễm với dioxin là một mối đe dọa sức khỏe đối với con người, sinh vật và môi trường, đặc biệt ở Việt Nam do chiến tranh, đất nước đã phải hứng chịu các đợt phun rải chất 2,3,7,8, tetrachlorodibenzo (p) dioxin (TCDD) - chất độc da cam cùng với vấn đề ô nhiễm hàng thập kỷ gắn liền với quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng.

TÓM TẮT

Phương pháp tiếp cận về sức khỏe là một cách tiếp cận thừa nhận rằng con người, động vật và môi trường có mối liên hệ với nhau và như vậy có thể được sử dụng như một khuôn khổ để nghiên cứu các chất độc hại môi trường phổ biến như dioxin. Các chiến lược One health thông báo vai trò của việc phơi nhiễm chất độc hại từ môi trường và cho phép so sánh các tác động đối với sức khỏe của các quần thể động vật, con người và hệ sinh thái. Tại đây, chúng tôi vận hành khuôn khổ One health thông qua việc tạo cơ sở dữ liệu mô tả bối cảnh ô nhiễm TCDD và dioxin.

Các phát hiện sơ bộ từ hai trong số các lĩnh vực cơ sở dữ liệu được báo cáo trong bài báo này. Sử dụng khu vực sinh sống của các sinh vật, chúng tôi đã tìm hiểu các tài liệu (n = 25 bài báo) nghiên cứu tại chỗ về ô nhiễm TCDD trong quần thể sinh vật tại Việt Nam. Chúng tôi trình bày những phát hiện tóm tắt về phạm vi địa lý của các nghiên cứu sàng lọc, các nhóm phân loại và loài được lấy mẫu, và loại mẫu vật, đồng thời suy ra các mối nguy cơ và rủi ro đối với sức khỏe cộng đồng dựa trên mô hình tiêu thụ thực phẩm và tích lũy sinh học. Hiện tại Human Domain đã xác định được 44 bài báo với hơn 500 phép đo. Sau khi mã hóa địa lý, các phương pháp GIS được sử dụng để phát triển bản đồ không gian - thời gian về mức độ phơi nhiễm dioxin ở người dựa trên các phép đo TCDD trong huyết thanh, mô hoặc sữa mẹ.

Dựa trên những phát hiện làm nổi bật sự ô nhiễm qua không gian và thời gian, các định hướng trong tương lai bao gồm tổng hợp những phát hiện giữa các loài để cho phép cải thiện quan điểm về sự tích tụ TCDD trong suốt vòng đời và chuỗi thức ăn. Xác định xem liệu có lỗ hổng kiến thức nào cần lưu ý hay không, và đánh giá tác hại TCDD đối với con người cũng như các tác động đến sự bảo tồn những loài có nguy cơ tuyệt chủng. Sử dụng các phát hiện từ phân tích cơ sở dữ liệu làm hướng dẫn cho các cuộc điều tra TCDD trong tương lai, cũng có thể xem xét cách tiếp cận One health để tiến hành lấy mẫu người, động vật và môi trường theo cặp hoặc các rủi ro khi thu thập mẫu từ môi trường và thực phẩm có thể ảnh hưởng đến nồng độ TCDD. Các bước lấy mẫu TCDD để phân biệt ô nhiễm chất độc da cam công nghiệp cũng sẽ cho phép hiểu rõ hơn về nguồn gốc và sự tồn tại, của TCDD ở các vùng khác nhau.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Rủi ro sức khỏe do dioxin môi trường gây ra rất phức tạp ở Việt Nam do các nguồn gốc lịch sử liên quan đến việc phun rải chất 2,3,7,8, tetrachlorodibenzo (p) dioxin (TCDD) - chất độc da cam (Stellman et al., 2003) tiếp theo là nhiều thập kỷ ô nhiễm liên quan đến quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng (Zook và Rappe, 2012). Là một loại chất gây ô nhiễm môi trường, dioxin là chất ưa béo và bền vững ở môi trường khiến chúng có khả năng tích tụ sinh học trong cả hệ sinh thái dưới nước và trên cạn. Các phát hiện từ các mô hình động vật và các nghiên cứu dịch tễ học đều chỉ ra rằng dioxin có khả năng thay đổi chức năng sinh sản, sinh trưởng và nội tiết. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã phát hiện mức độ gia tăng các dị tật bẩm sinh (Anh và cộng sự, 2006) và gây lo ngại về ảnh hưởng di truyền qua các thể hệ. Bối cảnh môi trường ở Việt Nam cho thấy nhu cầu cấp thiết phải hiểu rõ hơn về các nguồn, sự phân bố và vị trí của dioxin như một chất gây ô nhiễm. Ngoài ra, cần nhấn mạnh TCDD với tư cách là chất liên quan đến Chất độc da cam và tỷ trọng của nó trong tổng số diôxin, được biểu thị bằng chất độc tương đương diôxin (TEQ).

Dự án này được thực hiện theo cách tiếp cận One health ghi nhận mối liên hệ giữa con người, động vật và môi trường liên quan đến sức khỏe (WHO, FAO, OIE, UNEP 2021). Cho đến nay, cách tiếp cận One health chủ yếu được nhấn mạnh đối với các bệnh truyền nhiễm nhưng mang lại tiện ích tiềm năng cho nghiên cứu về chất độc sinh thái (Buttke 2011). Kế hoạch toàn cầu về hành động vì One health hiện đang được phát triển, sẽ bao gồm các khía cạnh sức khỏe môi trường và nhấn mạnh các hệ thống chia sẻ dữ liệu giám sát trên nhiều lĩnh vực. Cách tiếp cận này cũng đang được quan tâm tại Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc cho dự án này. Ví dụ, một Khung Đối tác Quốc gia về Sức khỏe cho giai đoạn 2021-2025 đã được phát triển để giải quyết các bệnh lây truyền từ động vật sang người. Việc xem xét TCDD thông qua khung Phương pháp tiếp cận về sức khỏe giúp hiểu rõ hơn về vấn đề và các nguồn rủi ro thông qua thông tin từ nhiều lĩnh vực (Hình 1). Do nỗ lực giám sát tổng thể còn hạn chế đối với TCDD và chi phí sàng lọc chất độc, One Health cung cấp một cái nhìn mở rộng về các loài để tận dụng tối đa thông tin hiện có.

Tại đây, khuôn khổ tiếp cận về sức khỏe được đưa vào vận hành bằng cách sử dụng các phép đo TCDD được thực hiện trong mô người, động vật, thực vật, đất và nước từ những năm 1970. Các nguồn dữ liệu hiện được sắp xếp thành một cơ sở dữ liệu được gọi là “Công cụ đánh giá ô nhiễm dioxin tại Việt Nam (DCVT)” được chia thành các miền: con người, sinh vật (bao gồm bao gồm động vật, thực vật, nấm) và môi trường.

Bài báo này báo cáo những phát hiện sơ bộ từ các miền về con người và sinh vật thuộc nguồn dữ liệu DCVT.

2. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong chiến tranh Việt Nam, đất nước đã trải qua một vụ gây ô nhiễm có chủ ý chưa từng có thông qua việc rải chất độc da cam có chứa TCDD như một chất gây ô nhiễm. Ngoài ra, giống như nhiều nước đang phát triển, Việt Nam đã trải qua quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng, kéo theo mức độ ô nhiễm dioxin trong môi trường ngày càng gia tăng. Do đó, cơ sở dữ liệu đã được tập hợp để trả lời các câu hỏi liên quan đến vị trí và mức độ ô nhiễm đối với mối nguy hiểm dai dẳng đối với sức khỏe này. Cơ sở dữ liệu đã sử dụng các biện pháp đo lường TCDD và dioxin trong gần 50 năm đã được các nhà khoa học môi trường của Việt Nam phối hợp với các nhà nghiên cứu quốc tế báo cáo. Ngoài ra, các cuộc khảo sát quy mô đã được thực hiện bởi các nhóm nghiên cứu như Hatfield Consultants ( www.hatfieldgroup.com ) từ Vancouver, Canada, với mục đích chuẩn bị cho việc khắc phục vấn đề ô nhiễm tại các căn cứ quân sự cũ của Mỹ.

Hình 1. Mô hình phương pháp tiếp cận về sức khỏe được áp dụng cho một chất độc hại.

a-phạm vi phơi nhiễm và b-tác động của TCDD

Cơ sở dữ liệu ô nhiễm TCDD (DCVT) của nghiên cứu này được phân chia thành 3 miền: con người, môi trường và quần thể sinh vật.

Một tổng quan tài liệu đã được thực hiện để tổng hợp các phát hiện từ các cuộc điều tra TCDD tại Việt Nam. Tìm kiếm trên các nguồn PubMed, Google scholar, cơ sở dữ liệu Organohalogen Compounds ( http://dioxin20xx.org/organohalogen-compounds-database-search/ ) và Google. Các cụm từ tìm kiếm đa dạng nhưng luôn bao gồm “TCDD” và “Việt Nam” hoặc “VietNam”. Kết quả tìm kiếm đã được xem xét và các báo cáo đáp ứng các tiêu chí của phép đo TCDD ở người, động vật, thực vật hoặc môi trường như đất hoặc nước đã được chọn để đưa vào. Với mục đích điều tra vai trò của Chất độc da cam, một tiêu chí tuyệt đối để đưa vào là đo nồng độ TCDD, không bao gồm các cuộc điều tra báo cáo nồng độ TEQ nhưng không phải TCDD. Ngược lại, các nghiên cứu báo cáo nồng độ TCDD nhưng không phải TEQ hoặc các đồng đẳng khác được coi là đạt tiêu chuẩn. Tiêu chí cơ bản thứ hai là các phép đo được thực hiện trong phạm vi quốc gia Việt Nam.

Ba cơ sở dữ liệu song song, một cơ sở dữ liệu cho mỗi miền (con người, quần thể sinh vật, môi trường) đang được xây dựng do các trường khác nhau cần thiết để tóm tắt dữ liệu. Tất cả cơ sở dữ liệu bao gồm các trường trích dẫn, số mẫu, năm lấy mẫu, năm báo cáo, vị trí chính xác nhất có thể để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mã hóa địa lý tiếp theo, nồng độ TCDD, chỉ báo liệu kết quả có được hiệu chỉnh lipid hay không, TEQ và% TCDD / TEQ. Một số trường mô tả phương pháp luận của phòng thí nghiệm cũng được bao gồm, mặc dù có thể hiểu rằng một số thông tin sẽ không có sẵn. Các trường này sẽ rất quan trọng đối với việc đánh giá độ tin cậy. Ngoài ra, một số trường nhất định là đặc biệt đối với cơ sở dữ liệu. Ví dụ, trong cơ sở dữ liệu của con người, có một trường cho biết liệu mẫu đó là từ huyết thanh, sữa mẹ hay mô mỡ. Cơ sở dữ liệu quần thể sinh vật chứa các trường để chỉ ra loài được lấy mẫu, loại mẫu, loài đó có phải là nguồn thức ăn hay không và động vật đó là hoang dã hay nuôi trong nhà.

Với sự đa dạng của các nguồn dữ liệu TCDD, độ tin cậy của các thước đo sẽ được đánh giá dựa trên một số lĩnh vực liên quan đến phòng thí nghiệm trong cơ sở dữ liệu. Đối với các biện pháp có độ tin cậy cao, phòng thí nghiệm được chỉ định, phương pháp phân tích và quy trình được mô tả hoặc xác định, và phòng thí nghiệm tham gia vào các hoạt động kiểm soát chất lượng (QC) được lập thành văn bản. Các biện pháp có độ tin cậy trung bình chỉ rõ phòng thí nghiệm, mô tả hoặc xác định phương pháp và quy trình phân tích, nhưng có ít bằng chứng về hoạt động QC. Các biện pháp có độ tin cậy thấp là các biện pháp mà phòng thí nghiệm không có phương pháp/quy trình phân tích, không được mô tả hoặc xác định hoặc không có bằng chứng về các hoạt động QC.

Dữ liệu được mã hóa địa lý và lập bản đồ bằng phần mềm QGIS.

3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Miền sinh vật: Sự ô nhiễm TCDD ở động vật

Đánh giá sơ bộ này về sự ô nhiễm TCDD đối với quần thể sinh vật ở Việt Nam tập trung vào động vật, cả động vật hoang dã và nuôi trong nhà, vì mức độ có xu hướng cao hơn mức được phát hiện ở thực vật hoặc nấm do động vật tỷ lệ lipid cao hơn và khả năng tích lũy sinh học. Chúng tôi đã xác định được mười một (11) bài báo khoa học báo cáo các phép đo TCDD trong 381 mẫu khác nhau. Lưu ý rằng mẫu có thể được lấy từ nguồn vật liệu sinh học tổng hợp từ nhiều loài động vật hoặc từ một cá thể riêng lẻ. Trong Hình 2, nồng độ TCDD được thể hiện theo nhóm phân loại. Cần lưu ý rằng những kết quả này được lấy từ nhiều nghiên cứu khác nhau và phân tích TCDD không phải lúc nào cũng được thực hiện trên cùng một loại mẫu mô như chúng ta sẽ tóm tắt trong Hình 3. Trong khi các phân tích hiệu chỉnh lipid được ưu tiên hơn, hầu hết các mẫu được đo TCDD trong mô ướt. Ví dụ, trong tổng số 121 mẫu gia cầm, có 25 mẫu đã được hiệu chỉnh lipid. Đây không phải là các mẫu được ghép nối vì vậy các phép đo TCDD trong mô ướt và được hiệu chỉnh lipid cho một cơ quan nhất định đến từ các nghiên cứu khác nhau. Như dự đoán, các giá trị nhìn chung có kết quả cao hơn sau khi hiệu chỉnh lipid. Các giá trị trung bình thấp nhất (thanh màu xanh dọc) được tìm thấy ở động vật có vú. Nồng độ TCDD cao nhất được tìm thấy ở cá, với quan sát bất ngờ rằng giá trị trung bình của cá được hiệu chỉnh lipid thấp hơn so với cá không hiệu chỉnh lipid. Điều này phản ánh tình trạng các mẫu không được ghép nối đến từ nhiều vị trí địa lý và môi trường với các mức độ ô nhiễm khác nhau. Trên thực tế, nồng độ cao nhất của TCDD được báo cáo là một phép đo không hiệu chỉnh lipid là 3990 pg/g được đo ở cá.

Để cung cấp tổng quan về quy mô, giá trị trung bình số học đối với các mẫu gia cầm đã hiệu chỉnh lipid là 25,8 pg/g so với 8,3 pg/g ở mẫu gia cầm không hiệu chỉnh lipid. Để so sánh, tổng TEQ phản ánh tất cả các chất diôxin chính ngoài TCDD được đo trong một cuộc khảo sát trên cá thị trường ở Hoa Kỳ được báo cáo chỉ có nồng độ 0,33 pg/g (Lorber và cộng sự, 2009). Trong cùng một cuộc khảo sát, nồng độ hiệu chỉnh lipid ở gia cầm ở Mỹ là 0,018 pg/g so với 25,8 pg/g đối với các mẫu ở Việt Nam (Lorber et al., 2009).

Hình 2. Nồng độ TCDD theo nhóm phân loại (“Lipid” = lipid đã được điều chỉnh). KEY: 5% và 95% CI: •; trung vị: ǀ ; trung bình cộng: |

Hình 3 tóm tắt cùng một tập dữ liệu như trên nhưng báo cáo kết quả theo loại mô. Như đã trình bày chi tiết ở trên, một số phân tích đã được hiệu chỉnh lipid trong khi những phân tích khác thì không. Mức cao nhất được tìm thấy trong lipid đạt gần 50.000 pg/g. Một số phân tích là từ các nguồn động vật mà chất phân tích mô không được nêu rõ trong văn bản của báo cáo. Dữ liệu được mô tả là “Các mẫu khác” là những dữ liệu mà nguồn đã được chỉ định nhưng số lượng phép đo không đủ để phân loại riêng biệt; ví dụ, chúng tôi có một phân tích duy nhất từ ​​móng của động vật.

Nồng độ TCDD trung bình được báo cáo trong trứng từ Việt Nam là khoảng 4 pg/g, cao hơn xấp xỉ một bậc độ lớn so với nồng độ TCDD đo được trong trứng từ Mỹ (ở California) vào cuối những năm 1990 (Goldman và cộng sự, 2000).

Để hiểu rõ điều này, lượng tiêu thụ hàng ngày có thể chấp nhận được (TDI) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đối với TCDD là 1 - 4 pg mỗi kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Do đó, đối với một người Việt Nam trung bình nặng 50 kg, TDI của họ sẽ dao động từ 50 đến 200 pg/ngày. Giả sử rằng một quả trứng gà trung bình nặng 50 g và có chứa 8 pg/g TCDD (dựa trên dữ liệu trứng đã hiệu chỉnh không chứa lipid), thì mỗi quả trứng sẽ chứa tổng cộng 400 pg TCDD, cao hơn gấp đôi so với lượng có thể dung nạp hàng ngày đối với người bình thường ở Việt Nam.

Miền con người: Sự phân bố theo địa lý mức độ tập trung của TCDD

Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp GIS để quan sát sự phân bố địa lý của ô nhiễm do con người gây ra theo thời gian. Chúng tôi đã xác định được bốn mươi bốn (44) bài báo báo cáo nồng độ TCDD trong các nguyên liệu có nguồn gốc từ con người, chủ yếu là huyết thanh máu và sữa mẹ. Các bài báo này cung cấp 541 mục với mỗi mục là một phép đo TCDD; các phép đo bắt nguồn từ các cá nhân, các kết quả tổng hợp từ nhiều cá nhân, hoặc trong một số trường hợp, các phép đo tổng hợp khi cả kết quả riêng lẻ hoặc tổng hợp đều không được báo cáo. Giá trị trung bình được tính toán cho các thước đo và tổng hợp. Nồng độ TCDD dao động từ không thể phát hiện đến 1648,5 pg/g lipid. Sau khi mã hóa địa lý, chúng tôi có 99 điểm được sử dụng để tạo bản đồ không gian địa lý và thời gian bằng phần mềm QGIS. Dữ liệu được chia thành các hình năm cánh để chỉ ra cường độ nồng độ (Hình 4).

Hình 4. TCDD trong các mẫu sinh học của con người thu được từ năm 1970 đến năm 2017

Bản đồ không gian địa lý cho thấy nồng độ TCDD cao hơn ở các tỉnh miền Nam và miền Trung, một phát hiện phù hợp với việc rải chất độc da cam. Chúng tôi nghi ngờ rằng sự di cư của con người từ những khu vực này có thể đã dẫn đến một số mức độ tăng nhẹ ở miền Bắc. Để so sánh, phân vị thứ 95 của nồng độ TCDD đo được ở người lớn được khảo sát trong Khảo sát Kiểm tra Dinh dưỡng và Sức khỏe Quốc gia Hoa Kỳ (NHANES) năm 2003-2004 là 5,2 pg/g.

4. KẾT LUẬN VÀ CÁC BƯỚC TIẾP THEO

Nghiên cứu ban đầu này cung cấp sự hiểu biết về giám sát ở nhiều loài và loại mẫu bằng cách đánh giá mức độ ô nhiễm TCDD ở động vật, nhiều trong số đó là nguồn thực phẩm cùng với việc chỉ ra sự phân bố rộng rãi về mặt địa lý khi tiếp xúc với con người. Các phân tích trong tương lai sẽ kết hợp các lĩnh vực, kiểm tra sự phân bố địa lý của quần thể sinh vật có liên quan đến sự ô nhiễm của môi trường. Cách tiếp cận về sức khỏe được áp dụng trong nghiên cứu này sẽ cung cấp cách nhìn nhận tốt hơn về các khía cạnh độc tố sinh thái có liên quan đến vai trò của phơi nhiễm và mức độ TCDD trong nguồn thực phẩm và môi trường. Tổng hợp các phát hiện giữa các loài cho phép cải thiện quan điểm về sự tích tụ TCDD trong suốt vòng đời và chuỗi thức ăn. Việc tổng hợp dữ liệu này sẽ giúp xác định các lỗ hổng kiến ​​thức cần lưu ý, cho phép đánh giá tác hại của TCDD liên quan đến các loài có nguy cơ tuyệt chủng.

Công việc trong tương lai có thể được xây dựng dựa trên nghiên cứu này, bao gồm việc bổ sung những khoảng trống địa lý mà dữ liệu sẵn có bị hạn chế. Các cuộc điều tra tương lai về TCDD cũng có thể xem xét cách tiếp cận về sức khỏe để tiến hành lấy mẫu người, động vật và môi trường theo cặp hoặc các rủi ro khi thu thập mẫu từ môi trường và thực phẩm có thể ảnh hưởng đến nồng độ TCDD. Các bước lấy mẫu TCDD để phân biệt nguồn gốc chất độc màu da cam công nghiệp cũng sẽ cho phép hiểu rõ hơn về nguồn gốc và sự tồn tại của TCDD ở các vùng khác nhau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngo AD, Taylor R, Roberts CL, Nguyen TV (2006) Association between Agent Orange and birth defects: systematic review and meta-analysis, International Journal of Epidemiology, 35:1220–1230, https://doi.org/10.1093/ije/dyl038

2. Bottom of Form

Buttke DE (2011) Toxicology, environmental health, and the “One Health” concept. J Med Toxicol. 7(4):329-32, doi: 10.1007/s13181-011-0172-4.

3. CDC (2020) Biomonitoring Summary: Dioxin-Like Chemicals: Polychlorinated Dibenzo-p-dioxins, Polychlorinated Dibenzofurans, and Coplanar and Mono-ortho-substituted Polychlorinated Biphenyls

https://www.cdc.gov/biomonitoring/DioxinLikeChemicals_BiomonitoringSummary.html Accessed December 8, 2021

4. Goldman LR, Harnly M, Flattery J, Patterson DG Jr, Needham LL (2000) Serum polychlorinated dibenzo-p-dioxins and polychlorinated dibenzofurans among people eating contaminated home-produced eggs and beef. Environ Health Perspect. 108:13-19, doi:10.1289/ehp.0010813

5. Lorber M, Patterson D, Huwe J, Kahn H (2009) Evaluation of background exposures of Americans to dioxin-like compounds in the 1990s and the 2000s. Chemosphere 77: 640-651.

6. Stellman, J., Stellman, S., Christian, R. et al. (2003) The extent and patterns of usage of Agent Orange and other herbicides in Vietnam. Nature 422: 681–687, https://doi.org/10.1038/nature01537

7. WHO, FAO, OIE, and UNEP. Tripartite and UNEP support OHHLEP’s definition of One Health. Joint Tripartite and UNEP Statement. December 1, 2021. https://www.who.int/news/item/01-12-2021-tripartite-and-unep-support-ohhlep-s-definition- of-one-health

8. Zook DR, Rappe C (1994) Environmental Sources, Distribution, and Fate of Polychlorinated Dibenzodioxins, Dibenzofurans, and Related Organochlorines. In: Schecter A. (eds) Dioxins and Health. Springer, Boston, MA. https://doi.org/10.1007/978-1-4899-1462-0_3

Jean Grassman 1, Lauren Cybulska 1, Fiona Conway 1, Catherine Machalaba 2

1 Khoa Sức khỏe nghề nghiệp, Môi trường và Không gian địa lý, Trường Đại học City University of New York về Chính sách y tế và sức khỏe cộng đồng, 55 West 125 th Street, New York, NY, 10027 USA

2 EcoHealth Alliance, New York, NY, USA

Bình luận

Gửi bình luận
Bình luận

    Tin khác